Thứ Ba, 29 tháng 12, 2009

Trần Mạnh Hảo

Không được quyền sĩ nhục đồng nghiệp một cách khiếm nhã như thế
•Trần Mạnh Hảo

Trong cuốn “những kiếp hoa dại” của vương Trí nhàn, được gọi là, “Tập chân dung và phiến luận văn học”,do N.X.B Hội nhà văn ấn hành 1993, trang 110, trong tiểu mục với một cái tên kinh hãi: “Chất lang chạ trong mỗi chúng ta”, khi cố ý dồn cả nền văn học Việt nam hiện đại vào ngôi nhà của Lang chạ, tác giả viết: “Là lang chạ vô nguyên tắc, những cây bút phê bình không cần biết hay dở hợp gu hay không hợp gu,viết bạt mạng, viết lấy được suồng sã xô bồ trong thẩm định và đánh giá”.

Như chúng ta đã biết,hai từ lang chạ chỉ sự chung đụng trai gái cô nguyên tắc, bậy bạ, hủ hóa, hoặc dùng chỉ gái thanh lâu, đàng điếm. Chúng tôi rất lấy àm sửng sốt,bởi một người xưa nay có tiếng là lịch lãm như nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, không hiểu vì lý do gì, núp dưới chiêu bài phiến luận, đột ngột đàng điếm hóa nền văn học của chúng ta, bằng cách xô tất cả văn giới vào chốn “lang chạ”. Không biết “Chất lang chạ trong mỗi chúng ta” có bao gồm chính tác giả không, nhưng khi ông chụp mũ lang chạ lên đầu giới sáng tác và phê bình, thì có vẻ ông trừ mình ra. Nghĩa là tất cả lang chạ, trừ vương Trí Nhàn (!)

Không được quyền sĩ nhục đồng nghiệp một cách khiếm nhã như thế
Xin hãy nghe nhà phê bình văn học họ Vương nhìn đồng nghiệp, người viết văn vốn được coi là làm một nghề cao quý: “Rồi có một lần ai đó buột miệng bảo anh là điếm. Không đánh đu với lão X đó được người ta bảo vậy. Lão ấy điếm lắm, đi với ai cũng thế, chỉ cốt moi tài liệu mà thôi” (tr.109). Một nhà văn xởi lởi, gặp ai cũng chơi được, cũng vỗ vai được “chỉ cốt moi tài liệu” để viết như trên, sao ông Vương Trí Nhàn lại nỡ chửi người ta điếm? gặp ai cũng chỉ cốt moi tài liệu mà thôi là bệnh nghề nghiệp của nhà văn, âu đó là ý thức tốt về nghề chứ, sao ông Nhàn lại nỡ mạt sát người ta như vậy? Xin hãy nghe ông Nhàn cắt nghĩa căn bệnh “điếm bút” mà ông chụp lên đầu đồng nghiệp: “Có người suốt đời không biết đến người đàn bà nào khác ngoài vợ, nói đến chuyện chơi bời thì ngớ mặt ra, muốn bảo vệ nhân phẩm chị em một cách nhiệt huyết, một cách chân thành…song nhiều người trong họ lại cư sử theo đúng tinh thần của nghề mà họ khinh bỉ. Trong sự giao tiếp hàng ngày nhiều khi vì lịch sự mà chúng ta phải xếp cái cá nhân chính đáng của mình lại, để chiều chuộng tất cả những người mà ta có quan hệ. Bảo thế là điếm e còn oan. Nhưng cứ đà ấy mà kéo, nhân danh sự kiếm sống ta tự cho phép làm tất cả những việc ta vốn không thích, miễn là làm vừa lòng khách hang của mình; việc vốn thiêng liêng đáng ra phải mang tất cả tình cảm và hứng thú ra để làm lại được tiến hành một cách máy móc, theo nguyên tắc của chiếc tăc-xi, khách nào cũng chở, có tiền là chở, tiền chao cháo múc …thì đúng là lang chạ vô nguyên tắc rồi còn gì …Là lang chạ vô nguyên tắc, những cây bút nào nhận viết về mọi đề tài không phân biệt quen hay lạ, sở trường hay sở đoản, cứ có người đặt tiền vào tay là viết…”. Trời ơi, trong thời buổi kinh tế thị trường, khi chính ông Vương Trí Nhàn nổi tiếng về việc “chạy chợ bằng ngòi bút, cút kít hàng xén lặt vặt bằng ngòi bút”, viết theo đơn đặt hàng đủ các báo khắp trong Nam ngoài Bắc, viết đủ mọi chuyện thượng vàng hạ cám cốt để kiếm sống, mà cớ sao ông dám cao ngạo rủa sả đồng nghiệp viết văn viết báo để kiếm tiền là “điếm bút”? Thưa với ông Nhàn là một số kiệt tác của Balzac,của Dostoievsky viết ra để trả nợ, để cốt kiếm tiền, viết trong tiếng đập cửa như búa bổ của chủ xuất bản đến đòi nợ đấy ! Viết theo đơn đặt hàng, viết để kiếm sống, viết như một cái nghề nuôi thân, là việc làm chân chính, lẽ nào lại có thể trở thành điếm bút được chứ? Hiện nay, ở phương tây, các nhà văn lớn ăn khách như Marquez chẳng hạn, đều viết theo đơn đặt hàng (commande) cả. Nhưng lạ thay, ông Vương Trí Nhàn, một người từng hô hào hiện đại hóa văn chương Việt Nam theo khuôn mẫu phương Tây, lại không chấp nhận được kiểu nhà văn viết theo đơn đặt hàng. Đến nỗi ở trang 180, sách đã dẫn, ông coi nhà văn viết theo đơn đặt hàng là: “Giao kèo với quỷ sứ đã ký rồi”. Theo ông Nhàn, văn chương là thiêng liêng, là sang trọng, viết vì nhuận bút là lang chạ, ký với nhà xuất bản một giao kèo là: “Giao kèo với quỷ sứ”,mặc dù ông làm ở nhà xuất bản hàng chục năm nay (!) Có lẽ, trong lịch sử văn học nước nhà, cũng như trong lịch sử văn học thế giới, chưa có một nhà phê bình văn học nào như ông Vương Trí Nhàn đã hạ cấp hóa nghề văn, liều mạng gọi đồng nghiệp của mình tất thẩy đều là “lang chạ”, là “điếm bút”?
Một mình xóa sổ cả nền văn học
Với quan niệm sai trái, nhục mạ cả nền văn học Việt Nam là lang chạ, Vương Trí Nhàn tự cho phép mình đứng trên tất cả, bất chấp sự thật, chân lý, vứt bỏ mọi giới hạn của văn hóa và lương tri, làm cuộc xóa sổ nền văn học mà trước đây ông hết lời ca ngợi trong hàng chục bài viết. Chàng Don quichotte họ Vương cưỡi trên con nghẽo Rossinanté có tên là “Lang Chạ”, tay cầm ngọn giáo “phiếm luận”, mình mặc áo giáp “chân dung” xông thẳng vào tiêu diệt “Những kiếp hoa dại” mà ông có nhã ý đặt tên cho cả nền văn học. Tất nhiên, khi một người một ngựa trong cái thế giới lang chạ ấy, chàng hiệp sĩ phê bình tự tung tự tác, muốn nói gì là tùy chàng, bất cần tiêu chuẩn chân lý. Và ông Vương trí Nhàn, một nhà lang chạ học, đã vui sướng tiêu diệt nền văn học đương đại Việt Nam bằng những nhận xét quá ư càn quấy: “Sáng tác của chúng ta vừa thấp về trình độ tư tưởng, vừa yếu kém, cổ lỗ về trình độ nghệ thuật” (tr. 181) “Chúng ta không có được những ngòi bút có văn hay, những giọng văn thật độc đáo. Ngược lại giờ đây, giở nhiều trang sách dễ có cảm tưởng như nhìn vào mẹt gạo mới đong, trấu sạn còn đầy, và điều đáng tiếc là cỏ dại ăn lẫn vào cả mảnh đất chuyên canh của những ngòi bút một thời được coi là kỹ tính…Người này dùng chữ cẩu thả, người kia câu cú vặn vẹo lung tung, mẹo luật tối thiểu cũng vi phạm… Quả thật, tiếng Việt đang bị dầy vò mà ở thế kỷ này, nó không đáng phải hứng chịu “ (tr. 182).Trước và sau năm 1975, bẩy tám năm gì đó, Vương Trí Nhàn đã có hàng chục bài viết ca ngợi nội dung tư tưởng và nghệ thuật của nền văn học Cách Mạng với không chỉ các nhà văn tiền chiến tham gia kháng chiến, mà ông còn có nhiều bài ca ngợi các tác giả như Nguyễn Đình Thi, Trần Đăng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Đỗ Chu, Phạm tiến Duật, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ… Nay,đột nhiên thấy ông nói ngược lại, xưa ông khen bao nhiêu thì giờ ông chê bấy nhiêu, chê lấy được chê như kiểu ăn chả bữa. Có lẽ, ông Vương Trí Nhàn quan niệm như thế mới là “đổi mới”, nghĩa là xưa nói trắng thì giờ, cùng một sự vật ấy, ông lại bảo nó vốn đen kịt hơn hũ nút (!) Ông báo động “Tiếng Việt đang bị dầy vò”, rằng nền văn học chúng ta đang hành hạ Tiếng Việt, tức nhiên là trừ ông ra. Ông tiếp tục làm tiên chỉ, phán: “Cái nền chung của chúng ta quá yếu; sự lạc hậu của sáng tác văn học, với ý nghĩa một ngành sản xuất tinh thần”(tr.179). “Lại cũng rất đáng báo động là trình độ nghề nghiệp của chúng ta ngày nay rất thấp” (tr.143). “Kỹ thuật viết của chúng ta hiện nay, đặc biệt là văn xuôi rất cổ lỗ” (tr.143). “Công tác nghiên cứu văn học cổ quá chậm trễ, không mang lại hiệu quả thiết thực “ (tr.184) “Cách sống, cách làm việc của từng người cũng như cách hoạt động toàn nghành (tức trình độ sản xuất) còn ở tình trạng lạc hậu “ (tr.185). Vương Trí Nhàn quan niệm văn chương là một nghành sản xuất, một công nghệ như nuôi gà công nghiệp, như đan len xuất khẩu. Rằng chúng ta mới chỉ biết làm hàng văn học nội địa, chưa biết làm xuất khẩu văn chương (!) Vương Trí Nhàn đứng trên văn giới, tiếp tục phán, ngầm bảo bọn viết văn đều thất học: “Thiếu lý tưởng nghề nghiệp, thiếu cốt cách trí thức” (tr.148) Ông cao ngạo xoa đầu giới sáng tác, chê người viết văn không chịu học hành như ông: ”Sự học hành tu luyện, suy nghĩ thêm, lo cho một câu, lo cho một chữ thì ngày càng ngần ngại” (tr.180). Trong giao tế cũng như trong văn học, hẳn ông Vương biết rằng, cái phương cách muốn giữ được sự có văn hóa, có học thức của mình là đừng bao giờ được quyền mắng người khác vô học, hoặc thiếu “cốt cách tri thức” như ông vừa phán ra.
Mối quan hệ giữa sang tác và phê bình của nền văn học đương đại được ông Vương trí Nhàn lang chạ hóa thành trò hề điếm đàng như sau: “Và đây là điều xẩy ra trong mối quan hệ tuyệt vời này: một mặt khinh phê bình như vậy, nhưng mặt khác, nhiều người lại lợi dụng phê bình. Họ hiểu,nếu trì trệ kéo dài thì chính những người phê bình kia lại đưa họ lên đài danh vọng và ở lại với lịch sử. Thật là mối quan hệ đáng ghê sợ” (tr.177) Thảo nào, một số người đã đùn đẩy ông Vương Trí Nhàn lên thành ngọn cờ “đổi mới văn học”. Đổi mới theo ông Vương là tha hồ được quyền xóa sổ nhân cách người sáng tác, bằng cách hắt toàn bộ tro trấu của quá trình “rửa quá khứ” của ông lên mặt đồng nghiệp, lên mặt bạn bè mà một thời ông từng tô son vẽ phấn. Chúng tôi kinh sợ về khả năng “đấu tố” đã bắt đầu lộ diện nơi ông Vương, khi ông “vạch mặt”đồng nghiệp: “Loại thứ nhất nói một đằng, nghĩ một nẻo mà không tự biết”. “Nếu sự phân thân ở loại người nói trên là ngây thơ, vô ý thức, thì ở loại người thứ hai là cố tình, hoàn toàn có ý thức”(tr.168) “Một số khác láu cá hơn mà cũng là loại thực dụng hơn, cứ nói theo thời thượng, chỉ cốt dư luận khen và những người có chức quyền khen, lấy sự khen tụng đó để dọa người, coi là mình đã làm lợi cho cách mạng” (tr.169). Quả là lần đầu tiên,văn chương nhà nước thông qua những trang viết “phê bình”của Vương Trí Nhàn, đã xuất hiện đầy đủ giọng điệu Chí Phèo khi gã chửi Bá Kiến, nghĩa là những ngôn ngữ đầu đường xó chợ như lang chạ, điếm đàng, láu cá, xỉ vả, khốn nạn…được phiếm luận hóa, để trở thành ngày hội cho thô lỗ và dung tục khoác y phục văn học. Hãy nghe ông Vương xỉ vả giới văn học, y như ông vừa mất con gà phê bình vậy: “Ở mỗi người, cái lì lợm, hơn nữa, cái láu cá bám vào nghề, cái đó có thừa” (tr.112). chính vì ý thưc xã hội “quan niệm tước đi cốt cách trí thức nhà văn “(tr.146) do ông Vương áp đặt, để tiêp tục xóa sổ nền văn học bằng cách rủa nó là xẩm chợ: “Đó là loại nhà văn giống như xẩm chợ, thiên về nói leo, phát biểu một thứ phản xạ tức thời và nông nổi trước đời sống hơn là chiêm nghiệm, suy nghĩ…” (tr147)
Xóa sổ nền văn học, dĩ nhiên, Vương Trí Nhàn phải xóa sổ chính văn học bằng cách sổ toẹt những thành tựu của nó, đồng thời ông còn tìm đủ mọi cách để xóa sổ cá nhân nhà văn, xỉ vả, bôi nhọ đời tư nhà văn, những người ngày xưa ông từng hết lời ca ngợi. Bới móc, thêu dệt, xuyên tạc, xúc xiểm đời tư đồng nghiệp, của bạn bè trong giới có lẽ là sở trường vô song của Vương Trí Nhàn. Hãy nghe ông “phê bình “đồng nghiệp một cách có vẻ lọc lõi và thị thành, ngôi lê đôi mách như sau; “Hãy kể về trường hợp anh nhà văn nọ, mà giờ đây, cả giới chúng tôi đều gớm! ngay từ lúc mới vào nghề, con người khôn ranh tinh quái đó đã học được toan những đức tính sang trọng của các bậc đàn anh. Thấy ai có gì hay hay cũng muốn phỗng tay trên. Bạ ai cũng sai. Sai đèo đi nơi này, nơi nọ, sai đi kiếm`cho tao mấy cái vé. Sai ra ngoài kia kiếm bia, kiếm lạc để chúng anh khề khà. Thậm chí, vào nhà người ta chơi, ngả ngốn ra đấy, sai cả bố mẹ, vợ con người ta điếu đóm hầu hạ mình luôn thể. Ấy là không kể một phương diện khác của sự hách, là cái tật hay nói, hay dậy khôn, bạ cái gì cũng dúng mồm vào, đến nhiều đám đông, chưa nghe thủng chuyện người ta nói đã ào ào như máy nước hỏng…”(tr.116).Sao lại bới lông tìm vết đồng nghiệp theo kiểu mẹ chồng nàng dâu như vậy hỡi nhà phê bình vốn từng cao đạo và sang trọng? Những cái nhìn thiếu tính nhân đạo, những xúc xiểm khinh khi đồng nghiệp kiểu hàng xén vừa dẫn trên đầy tràn trong “Những kiếp hoa dại” Vợ chồng Xuân Quỳnh-Lưu Quang Vũ đã mất lâu rồi, sao khi viết về chân dung người nữ thi sỹ bất hạnh kia, Vương Trí Nhàn còn bới móc nỗi đau và tấn bi kịch đời tư tình yêu của người ta một cách suồng sã và bất nhẫn chừng này: “Và chị tưởng rằng với tình yêu, mình có thể làm được tất cả, biến kẻ xấu thành người tốt, gã đàn ông ích kỷ thành người chồng hết lòng với vợ con; thậm chí tình yêu vượt cả những xa cách về thời gian tuổi tác…”(tr.13) Vương Trí Nhàn cũng chẳng tha cả Xuân Diệu: “Đi với dòng đời” (tên một bài thơ của Xuân diệu ) mà họ cứ cánh cánh bên lòng. Động có việc gì xẩy ra (mà trong cách mạng thiếu gì việc xẩy ra) là họ lấy mình ra xỉ vả “(tr.157) Vương Trí Nhàn lật tẩy xỏ xiên Nguyễn Khải: “Mấy năm trước, nằm mơ cũng không thể nghĩ có lúc Nguyễn Khải lại tự bảo rằng mình viết Tầm nhìn xa là bất nhân và giả dối” (tr.171). Dưới con mắt soi mói và ác ý của Vương Trí Nhàn, những bậc đàn anh tiền chiến mà ông từng ca ngợi nhiều năm bỗng hiện ra như tuồng lợi dụng, cơ hội và xấu xa: “Dưới hình thức những đặc ân đã có nhiều sự đền đáp không phải là không đáng kể. Trước các đặc ân ấy, những Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển, Tô Hoài, Nguyễn Xuân Sanh… sớm nhận ra ngay và không bao giờ quên khai thác đến cùng” (tr.166)… Vương Trí Nhàn xuyên tạc ý nghĩa của việc nhà văn đi thực tế, một phương cách bám sát đời sống suốt nhiều chục năm văn học: “Khi công khai tuyên bố phải đi tìm cái đẹp, cái tốt ở người công nhân, ở người chiến sỹ, có ý nghĩa là người viết văn cảm thấy mình và những người quanh mình hàng ngày sống phù phiếm, vớ vẩn, phải nhờ quần chúng tẩy rửa, thanh lọc để tâm hồn trong trẻo, sạch sẽ hơn. Đi thực tế, do đó, là một cách từ bỏ tội lỗi” (tr.162) Với những trích dẫn và phân tích trên, chúng ta thấy Vương Trí Nhàn đã bất chấp sự thực lịch sử, không biết vì nguyên nhân gì mà ông nỡ lăng nhục cả một nền văn học của một thời, bới móc, khinh mạn, rẻ rúng các nhà văn suốt một thời mà nhờ họ, hay nói đúng hơn nhờ viết về họ, nhờ ca ngợi họ, ông mới có chỗ đứng trong văn đàn. Nhưng thực là mâu thuẫn, ở trang 70 cuốn sánh của mình, chúng tôi thấy một lần duy nhất ông vương nói đúng sự thật về một thời lãng mạn đã qua, ngược hẳn một trăm tám mươi độ với thành tích phủ nhận và xóa sổ nền văn học của cả cuốn sách: “Ngày nay, có thể ta sống khác, yêu ghét đã khác, song nghĩ lại về cái thời ấy, ta vẫ thấy bằng lòng với mình và tự nhủ rằng đó là những gì tốt đẹp nhất, không dễ mà có”.
Những khiếm khuyết của tri thức
Ở trang 65, Vương Trí Nhàn đã lầm lẫn khi cho trí thức là một cái nghề, đến nỗi,ông dám đặt bút viết: “được biên soạn gần như giành riêng cho lớp công chúng chọn lọc, những người hành nghề trí thức”. Thưa rằng, trí thức là trình độ của những người có học vấn cao, lao động bằng trí óc, có kiến thức chuyên môn giỏi trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Ở trang 18, Vương trí Nhàn viết: “Nguyễn Huy Thiệp muốn học theo bút pháp lạnh lùng hằn học của nhà viết sử Tư Mã Thiên”. Sử ký Tư Mã Thiên là cuốn sử vĩ đại của nhân loại, nếu nói như ông Nhàn, tác giả bộ sử ký lại phổ thái độ hằn học chủ quan của mình lên cuốn sách thì còn gì là lịch sử nữa. Quả là ông Nhàn chưa đọc kỹ bộ sử này, nên mới nói như vậy. Ở trang 45 Vương Trí Nhàn bỗng dưng tuyệt đối hóa Lâm Ngữ Đường, một nhà dịch thuật và trước tác Đài Loan có vị trí đứng khá sau, khá xa Quách Mạc Nhược và Hồ Thích: “ta liên tưởng tới giọng của triết gia Lâm Ngữ Đường trong cuốn sách được cả thế giới bái phục: một quan niệm sống đẹp”. Khiếp, làm gì tới mức như vậy, ngay cả nhân vật văn học số một Trung Hoa hiện đại là văn hào Lỗ Tấn cũng còn chưa “được cả thế giới bái phục”, huống nữa là nhân vật thường thường bậc trung như Lâm Ngữ Đường! Nói Lâm Ngữ Đường là nhà triết học quả tình là ông Vương chưa hề biết gì về nhà văn trung hoa này cả. Những kiến thức tí mảy, lặt vặt như thế này chúng tôi còn thấy Vương Trí Nhàn mắc phải khá nhiều lần trong một cuốn sách. Nay, chúng tôi chỉ xin nêu ra một lỗ hổng khá lớn về kiến thức nơi tác gỉa cuốn sách này. Đó là quan niệm hết sức sai lầm của Vương Trí Nhàn khi tuyệt đối hóa thơ mới 1932-1945, coi nó là tuyệt đỉnh của thơ dân tộc để từ đó, coi thường, phủ nhận những giá trị truyền thống của hồn thơ dân tộc: “dù dè dặt đến mấy, người ta cũng phải thừa nhận rằng từ năm 1932 về trước, thơ Việt Nam như bị đóng kén lại trong một hình thức cổ điển gò bó, tẻ nhạt” (tr.88).Chẳng lẽ, vì đề cao thơ mới lên địa vị độc tôn, địa vị chúa tể của thơ, đến nỗi Vương Trí Nhàn sổ toẹt những áng thơ thiên tài của dân tộc mà không có gì vượt qua đượcnhư truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ xuân Hương…để coi nó là tẻ nhạt ư? Hóa ra, nhà phê bình họ Vương chưa kịp nghiên cứu kỹ những áng văn chương cổ dân tộc, nên mới kết luận rằng những Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên,… đều đã vượt lên đầu Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều Đoàn thị Đểm, Cao Bá Quát, Tú Xương (!) Do vậy, nhà phê bình mới lật đổ các thần tượng thi ca dân tộc, xem toàn bộ di sản văn học đỉnh cao cuối thế kỷ thứ 18 đến đầu thế kỷ 19 là thứ không ra gì so với nền thơ Âu hóa: “Sự thắng thế của thơ mới so với thơ cũ là một sự kiện thuộc về “đổi mới hình thức” nhưng lại có tính nội dung cao độ. Nó góp phần đánh giá xã hội Việt Nam tiến sang thời kỳ hiện đại. Toàn bộ quy phạm thi ca cũ từ nay bị xem là đồ cổ. chỉ có ý nghĩa với người nghiên cứu lịch sử “ (tr.89). Cứ tưởng Vương Trí Nhàn chỉ trở thành “anh hùng đổi mới “khi ông nhắm mắt phủ nhận nền văn học đương đại mà trước kia ông từng ca ngợi. Hóa ra, toàn bộ di sản thơ ca vĩ đại của dân tộc từ trước thơ mới ông cũng không tha, cũng dung ngọn roi thơ mới quất nên hồn thơ cha ông những trận tơi bời hoa lá theo kiểu Tú Bà đánh Kiều, thì quả tình, chúng tôi xin bái phục sự liều mạng kinh khiếp của ông Vương –một người từng chê các nhà văn Việt nam “thiếu cốt cách tri thức “(!)
Có lẽ, vì Vương Trí Nhàn cho rằng cả nền văn học chúng ta đều nằm trong thế giới lang chạ, cho nên, ông mặc sức phát ngôn bất chấp tiêu chí tố thiểu của văn hóa giao tiếp, cũng như bất chấp cả thái độ cung kính ý tứ khi bước vào đền văn chương. Ông Vương coi cá mè một lứa, đến độ ông đóng vai các nhà thơ nhà văn lớn để trả lời phỏng vấn do chính ông đặt ra. Giá ông viết lách đứng đắn và tôn kính tiền nhân thì chẳng nói làm gì, đằng này, ông lang chạ hóa cả các bậc tiền bối, bờm sờm, bông phèng nếu không nói là thiếu lẽ phép khi xuống cõi âm phỏng vấn Xuân diệu: “-Kinh nghiệm tồn tại của ông trong văn học? –Lúc làm thơ thì phải thật trong sáng. Nhưng lúc in thơ thì phải thật là cơ hội (cười )”…(tr.52) Xuân Diệu, một thiên tài thơ việt nam, cần gì ông phải giở trò “cơ hội” mới in được thơ. Thậm chí, thơ ông chưa viết xong, nhà xuất bản đã đến giục. Vương Trí Nhàn viết như trên là một sự súc phạm sâu sắc, một sự bôi bác, một đòn vu khống đánh vào hương hồn một tài thơ lớn của dân tộc nơi chín suối.
“Những kiếp hoa dại” của Vương Trí Nhàn quả là còn có nhiều cỏ dại. Có lẽ, do tác giả mặc cảm tư ti trước giới sáng tác, nên nhân có thời cơ “đổi mới”, bỗng vùng lên, ra sức sỉ vả các nhà văn Việt nam bằng những lời lẽ í tai dám dung nơi trường văn trận bút. Thậm chí, ông còn liều lĩnh mắng các nhà văn Việt Nam là ít học, là “thiếu cốt cách tri thức”. Chúng ta cũng chẳng nên oán trách vì sao ông lại cả gan xổ toẹt nền văn học mà ông từng ca ngợi, để dám gọi đồng nghiệp là điếm bút, là lang chạ như chúng tôi vừa trình bầy trên. Đến đây, chúng tôi xin trả lại Vương Trí Nhàn câu nói mà ông gán cho giới phê bình văn học Việt Nam đã trích ở đầu bài này, theo kiểu “Cái gì của Chúa xin trả lại cho Chúa, của Caesar thì trả lại cho Caesar”; Xin ông Vương giữ lấy “một lời là một buộc vào khó nghe” làm của riêng, làm vũ khí ngòi bút mình, để tiếp tục tiêu chí “đổi mới văn học” là: “lang chạ vô nguyên tắc, những cây bút phê bình không cần biết hay dở, hợp gu hay không hợp gu, viết bạt mạng, viết lấy được, suồng sã xô bồ trong thẩm định và đánh giá “ (tr.110…)
Thành phố Hồ Chí Minh đêm 5-7-1996
(Đã in báo “Quân đội nhân dân thứ bẩy số 31 năm 1996)

Vương Trí Nhàn

Chất lang chạ trong mỗi chúng ta
•Vương Trí Nhàn

Giao thiệp rộng vốn là một yêu cầu thiết yếu đặt ra với nghề cầm bút. Có giao thiệp rộng, một người viết văn mới có cơ may hiểu đời hiểu người và có vốn để viết. Trong hoàn cảnh mà việc viết lách còn luôn luôn đòi hỏi cả mọi sự thường xuyên dỏng tai nghe ngóng để nắm bắt được sư luận cho chính xác, thì có thể nói là không giao thiệp rộng không viết nổi. Ấy vậy mà có những người trong chúng tôi, vụng về cố chấp, cả đời chỉ loanh quanh trong một đám bạn bè hẹp.

Trong khi ấy lại có những người gần như đi với ai cũng được, đi với ai cũng toe toét cười đùa nói năng bả lả. Cả già lẫn trẻ, cả các ma cũ lẫn đám ma mới, cả đám chuyên môn chúi đầu vào sách lẫn đám sống không ngại bụi đời và quan trọng nhất là cả những người lúc nghiêm chỉnh anh tìm đến để dãi bày tâm sự lẫn đám Chí Phèo thực bụng là anh e ngại, tất cả, tất cả, anh đều khoác tay thân mật như bồ bịch. Trông sự đóng kịch của anh mà thèm. Vâng, chúng tôi cũng hiểu anh X. nói ở đây là người giỏi đóng kịch, giỏi đổi màu, đi với bụt mặc áo cà sa đi với ma mặc áo giấy, là sống theo kiểu làm xiếc. Rồi có một lần ai đó buột miệng bảo anh là điếm. Không đánh đu với lão X. ấy được, người ta bảo vậy. Lão ấy điếm lắm, đi với ai cũng thế, chỉ cốt moi tài liệu thôi mà. Người chung quanh ngớ ra một lúc rồi cũng thấy phải. Riêng có anh X. vẫn cười nhăn nhở, vẻ như muốn bảo ai người trong bọn mình chả có chút lang chạ. Lang chạ trong giao thiệp như tôi còn là chuyện tha thứ được, anh nói thêm. Đến như các bố lang chạ trong viết lách mới thực đáng sợ.
Lần này thì lời cảnh cáo của cái con người thập thành ấy có làm cho chúng tôi sững người ra một lúc thật!
Trong tiểu thuyết Anh em Karamazov, nhà văn Nga Dostoievski từng nói tới một tình huống kỳ lạ. Smerdiakov thực thi việc giết bố. Nhưng chính kẻ sớm có ý định làm việc ấy và ngấm ngầm khuyến khích hung thủ, tóm lại tội nhân chính phải kể là Ivan. Chuyện lang chạ nói ở đây cũng có nét gì đó tương tự. Có những người suốt đời không biết đến người đàn bà nào khác ngoài vợ, nói đến chuyện chơi bời thì ngớ mặt ra, muốn bảo vệ nhân phẩm của chị em một cách nhiệt huyết, một cách chân thành… song nhiều người trong họ lại cư xử theo đúng tinh thần của cái nghề mà họ khinh bỉ. Trong sự giao thiệp hàng ngày nhiều khi vì lịch sự mà chúng ta phải tạm xếp cái cá nhân chính đáng của mình lại, để chiều chuộng tất cả những người mà ta có quan hệ. Bảo thế là điếm e còn oan. Nhưng cứ đà ấy mà kéo, nhân danh sự kiếm sống ta tự cho phép làm tất cả những việc ta vốn không thích, miễn làm vừa lòng khách hàng của mình; việc vốn thiêng liêng đáng ra phải mang tất cả tình cảm và hứng thú ra để làm, lại được tiến hành một cách máy móc, theo nguyên tắc của chiếc tắc xi, khách nào cũng chở, có tiền là chở, tiền trao cháo múc… thì đúng là lang chạ vô nguyên tắc rồi còn gì. Càng những nghề có quan hệ tới công chúng rộng rãi, cái nguy cơ ấy càng lớn. Như trong việc sáng tác văn chương mà chúng ta đang nói. Là lang chạ vô nguyên tắc, những cây bút nào nhận viết về mọi đề tài không phân biệt quen hay lạ, sở trường hay sở đoản, cứ có người đặt tiền vào tay là viết, viết xong lại khinh bỉ ngay cái vừa viết rời tay, song rằng quen mất nết đi rồi, ngày mai lại làm tiếp cái việc hôm qua đã làm.
Là lang chạ vô nguyên tắc, những cây bút phê bình không cần biết hay dở, hợp gu hay không hợp gu, viết bạt mạng, viết lấy được, suồng sã xô bồ trong thẩm định và đánh giá. Không phải ngẫu nhiên mà người ta thường so sánh việc cầm bút với tình yêu, coi đó là những hành động nguyên bản, mỗi lần diễn ra là một trường hợp độc đáo. Bởi trong xã hội hiện đại, sự nhốn nháo có chiều tăng lên, người ta lại càng quý mến những ai giữ được tiết sạch giá trong của ngòi bút (còn việc mang lại cho cái tình yêu đó một sắc thái hiện đại, ấy lại là chuyện khác và chúng ta sẽ nói tới vào một dịp khác!)
Nguồn: http://vuonghoahaidang.blogspot.com

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2009

Bún bò Huế

Bún không phải chỉ đơn thuần là một món ăn truyền thống của Huế, nhưng đối với người Huế, bún còn là một phần lối sống “Kiểu Huế”. Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng.. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch).

Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương... Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha. Cái dấy loạn bão liệt nhưng nên thơ và lý tưởng quá đà của những tâm hồn lãng mạn kiểu Huế chỉ làm cho Huế thành đất dấy nghĩa nhưng không thể nuôi lớn Huế thành căn cứ địa, chiến khu như Tân Sở, Ba Lòng. Xưa vua Hàm Nghi và vua Duy Tân chỉ có những phút huy hoàng và chợt tắt ở Huế, để rồi suốt canh thâu le lói ở phương nào.

Tô bún bò Huế cũng là một biểu hiện của văn hóa Huế vì đây cũng là một sự “dấy nghĩa” trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẩn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở” thành một thể hài hòa. Huế đã dùng sả để “chuyên trị” thịt bò chứ không dùng ngủ vị hương để chuyên trị như truyền thống lâu đời ở Trung Hoa và miền Bắc. Tô bún Huế mang hưong vị “rất Huế” để mà cảm nhận và thưởng thức như cảm nhận và thưởng thức mùi khói sóng buổi chiều trên sông Hương. Tự nhiên như: “Nó ngon thì tại nó ngon. Có chồng thì phải nuôi con, thờ chồng”. Cái dễ giận nhất của người Huế là "mình cảm thấy..." mà không cần lý luận. Bởi vậy, hình như càng đem lý tính để phân tích các món ăn Huế, cái hiểu về hương vị thực tế càng xoải cánh bay xa...

Bún Bò Huế. Ai ở xa nghe như thể Huế là vùng đất thổ sản của bò, giống miền Nam Mỹ Texas . Thật ra, tìm một trại bò trên đất Huế cũng khó như tìm lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Tô bún bò Huế cũng là phản ánh cái tham vọng thu nhỏ của người Huế vì muốn dùng cái “lượng” giới hạn để đạt tới cái “phẩm” vô cùng. Bởi vậy, ngoài những chất liệu cay chua ngọt bùi của trần gian, tô bún Huế còn được “nêm” thêm ít nhiều gia vị vô hình của cái tâm chủ quan và cái linh của hoàn cảnh Bà Bún.

Suốt cả thời thơ ấu, tôi sống ở làng, quanh năm chỉ có “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên...” là đẹp nhất.
Hàng năm, sau dịp Tết, người trong làng lại bắt đầu chuẩn bị lễ đầu năm. Mẹ tôi lễ vào ngày 19 tháng giêng để kịp ngày 20 đi coi giò gà và dự lễ tế Bà Bún tại làng Vân Cù.

Mỗi năm, tôi được ăn bún khá nhiều lần nhưng hai lần trọng đại nhất và ngon nhất là trong dịp lễ đầu năm của mẹ tôi và trong ngày lễ tế Bà Bún tại Vân Cù.

Làm sao tôi quên được những buổi sáng hai mươi tháng giêng. Từ sáng tinh mơ còn lạnh cóng, mẹ tôi đã cẩn trọng nhúng bộ giò gà khô queo trong tô rượu trắng, gói trong giấy bổi, lâm râm cầu nguyện rồi chuẩn bị lên đường bói quẻ đầu năm.. Tôi là con trai út, nên được thương nhất nhà và thường bị gọi là “cái đuôi của mạ” vì mẹ tôi đi đâu tôi cũng lon ton dòi chạy theo.

Sau vụ coi giò gà tại nhà thầy Kiên ở Hương Cần thì mặt trời đã lên quá đọt tre. Mẹ tôi tiếp tục cuộc hành hương cuốc bộ đầu năm về làng Vân Cù. Từ Hương Cần về Vân Cù phải qua một cánh đồng lúa rộng, tôi phải chạy lúp xúp theo mẹ mướt mồ hôi, mặc dầu trời tháng giêng trên quê tôi lạnh đến nỗi “giêng hai cắn tay không ra máu!”. Sau nầy tôi bỗng khám phá ra thêm một bí mật về cái ngọn tuyệt vời của bún xáo Vân Cù trong ngày lễ Bà Bún một phần cũng là do cánh đồng trống nầy vì vượt qua cho được dặm trường thiên lý nầy thì cái bụng đã trống trơn.
Muốn nói đến Bún Bò Huế thì đừng quên trước hết phải nói đến con bún, vì tô bún là một tổng hợp hài hòa giữa con bún và nước bún. Thiếu một trong hai là kể như có Adam mà không có Eva, có Phạm Lãi mà thiếu Tây Thi! Và, nói đến con bún Huế thì không thể không nhắc đến chiếc nôi của bún là làng Vân Cù.. Làng Vân Cù nằm cạnh sông Bồ, là con sông ăn thông với sông Hương qua nhánh sông Đào. Vân Cù cách Huế chừng 10 cây số về phía Tây Bắc. Từ xưa, Vân Cù là lò bún tập thể cung cấp bún cho cả Huế, Thừa Thiên, ra tới Quảng Trị và có khi vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết người làng Vân Cù tuy sống về nghề nông nhưng ai cũng có lò bún trong nhà.
Cũng như rất nhiều nghề thủ công khác ở Huế như nghề Thợ Rèn ở Làng Hiền Lương, nghề Đan Thúng Mủng ở làng Bồ La, nghề Thợ Vàng ở làng Kế Môn, nghề Nuôi Tằm ở làng Dương Sơn, nghề Chằm Nón ở làng Hương Cần, nghề Đan Nôi Bội ở làng Liễu Hạ, nghề Gạch Ngói ở làng Nam Thanh... nghề Làm Bún ở làng Vân Cù là một công việc làm ăn truyền thống và độc đáo riêng của từng đơn vị sản xuất gia đình trong làng, có tính cách cha truyền con nối từ đời nầy qua đời khác. Tất cả dây chuyền sản xuất đều làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, nhưng thành phẩm thường đạt đến mức tinh luyện mà người khác làng khó lòng bắt chước nổi.

Thủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù là một bà, tục gọi là Bà Bún. Thời gian đã xoá nhòa danh sách của những người muôn năm cũ nên chẳng còn ai nhớ tên thật của Bà Bún. Trong những câu chuyện dân gian truyền miệng về cuộc đời của Bà Bún, tôi còn nhớ mãi chuyện kể của bác Cửu Am với mẹ tôi rằng:

Vào một thời xa lắc xa lơ, khi có những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những Tháp Chàm cổ xưa đã đổ nát nên sau nầy có tên là làng Cổ Tháp, thuộc huyên Hương Điền. Trong số đó có một người thiếu nữ đẹp, có lẽ cũng mắt lá răm, môi cắn chỉ, má lúm đồng tiền... nên rất được nhiều người mến chuộng. Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề canh tác làm ruộng thì người thiếu nữ nầy miệt mài chuyên nghề làm bún. Bún nàng ngon quá hay vì nàng xinh quá mà làm cho bao người ăn quên cả đường về. Rượu không say bún say mới ngại... Vì vậy nên nhiều người ganh tỵ. Rồi một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm. Người ta cúng, tế cầu thần linh cứu giúp. Gặp cơ hội nầy, kẻ xấu bụng tung tin rằng, mất mùa là do thần linh quở phạt vì Cô Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời, phơi mao ngậm sữa” ra mà ngâm, mà chà, mà xát, mà nghiến nát ra để làm bún. Thế là nhà nông bắt đầu nổi giận. Hội Đồng Thị Tộc của làng họp bàn và ra lệnh cho Cô Bún phải bỏ nghề làm bún hay sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, nhưng Cô Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi.

Vì bản chất hiền lương và thuần hậu nên Cô Bún được làng ban ân cho phép chọn lựa hướng đi và cử năm người thanh niên mạnh nhất trong làng theo áp tải. Mỗi thanh niên sẽ cõng cái cối đá làm bún của Cô đi một chặng đuờng cho đến khi mệt đuối sức thì người khác tới thay cho đến hết người thứ năm là vùng đất mới của Cô Bún. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông cặp theo sông Bồ không nghỉ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù sau nầy. Nơi đây đã trở thành “đất lành chim đậu” cho Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề làm bún đời đời qua bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và dân tộc..

Người ta thường ví von “mềm như bún” nhưng cái mềm Đông Phương lại là cái dẻo dai bền bỉ để sống còn trên bước đường vạn dặm. Thân gái dặm trường, Bà Bún đã vượt Hoành Sơn vào Huế. Chim đã về núi, Bà đã về dất nhưng Bún Huế vẫn còn tươi rói với nhân gian như có người đã hát nửa chơi, nửa thiệt: “Hoành sơn nhất đái chim về cội. Vạn đại dung thân đọi bún bò”.

Một “xưởng bún” điển hình ở làng Vân Cù thường bao gồm một cái xay để xay bột, một cái cối có chày đạp, lò nấu , chảo lớn, rây bột, khuôn bún và một số dụng cụ để khuấy, vớt, đong, đựng bột và bún trong từng chặng đường sản xuất.

Từ hột gạo măng tơ biến ra con bún nõn nà cũng phải cần đến bàn tay, không phép mầu nhưng cũng phải khéo léo và cần cù, của bà tiên lao động. Sợi bún bắt đầu từ hột gạo. Gạo trắng ngâm nước lạnh qua đêm sẽ “mục” ra và được đem xay hay giã nhuyễn thành bột. Tiếp theo, bột gạo được “rây” để lọc ra phần mịn nhất tinh bột của gạo. Bột gạo nguyên chất được rưới nước sôi để nhồi thành một khối bột gọi là “trái bột”. Trái bột gạo được luộc chín sơ, rồi vớt ra và đem trộn với bột lọc theo tỷ lệ cứ 30 lon gạo (khoảng 10 ki-lô), trộn với 2 ki-lô bột lọc. Tổng hợp bột gạo và bột lọc nầy lại được giã, trộn rất nhuyễn cho tới khi trái bột đạt tới mức “vừa đai, vừa đẻo” là đuợc. Giai đoạn cuối cùng là khối bột mượt mà và dẻo quẹo được đưa vào khuôn bún. Dưới sức ép, những đường bột tuôn ra theo lỗ đục sẵn dưới đáy khuôn bún, rơi vào nồi nước sôi và chín thành bún. Bún được vớt ra, xả sạch với nước lạnh và sẵn sàng để ăn.

Bún tự nó đã là một món ăn thanh đạm của người Huế, nhất là vùng quê. Bún Vân Cù được làm ra dưới ba hình thức: Bún con, bún lá và bún mớ.

Bún con hay bún vắt là một lọn bún quấn lại với nhau, dài vừa nắm tay như cuộn chỉ thêu, rất tiện lợi cho việc ăn uống đơn giản và đạm bạc trên nương, ngoài đồng, giữa đường. Chỉ cần một chút nước mắm ớt và năm, bảy con bún vắt thì bác nông phu trên đường về, chị chủ quán rộn ràng giữa chợ, em bán hàng rong lang thang... có thể tay cầm con bún chấm vào nước mắm ăn ngon lành ngay trên “hiện trường” vừa ngon miệng, vừa ấm lòng, vừa khỏi lơ là công việc..

Bún lá là một lớp bún trải trên lá chuối tươi, cuộn tròn cỡ bằng cái bánh tráng trung bình. Bún trắng nổi trên lá xanh mang vẻ đẹp trinh nguyên nên vừa bắt mắt, vừa bắt miệng. Bún lá thường là đơn vị bún cho cá nhân và gia đình: Mỗi người một rá, mỗi lá một tô.

Bún mớ, còn gọi là bún “ngảo” hay bún kí-lô. “Ngảo” là cái rổ nhỏ thường dùng như một đơn vị đo lường ở các vùng quê của Huế trong khi “kí lô” là đơn vị đo lường mới xuất hiện sau này. Bún mớ là bún sản xuất đại trà với số lượng lớn để buôn bán, đổi chác trên thị trường.

Thật ra cả ba loại bún cơ bản là giống nhau, đều có màu ngà đục khi sống và màu trắng trong khi đã luộc chín. Người ta thường dùng danh từ “bún tươi” để chỉ bún mang trực tiếp ra từ lò và “bún luộc” để chỉ con bún được luộc chín từ bún khô. Con bún Huế điển hình có độ dai vừa phải, không “đai hoai” như bột lọc nhưng cũng không bở rệt như bột gạo. Thường người ta dùng đinh 3 phân ( khoảng 1/8 inch) để đục lỗ thoát trong khuôn bún hay để ước lượng độ lớn của con bún. Trong thực tế, bún lớn hay nhỏ là do bàn tay khéo léo của người cầm “rây”. Muốn sợi bún nhỏ, ngay khi những con bún sống đang chảy xuống nồi nước sôi để thành bún chín, chỉ cần đưa cái khuôn đầy bột lên cao; muốn có con bún to thì hạ khuôn xuống thấp. Bún nhỏ là bún kim để làm bún khô hay bún Tàu dùng nấu canh và bún to hơn là bún thô dùng để xào trộn thức ăn trong những dịp giỗ, Tết. Bún con và bún lá thường được cho là ngon hơn có lẽ vì được sản xuất đầu nước nên láng lẩy và tươi tắn hơn: “Bún đầu nước thì ngon, con đầu nước thì dại (?)”.

Ngoài cơm và khoai sắn, có thể nói rằng, bún nói chung là món ăn truyền thống được phổ biến rộng rãi nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như khắp năm châu. Các loại bún truyền thống miền Bắc thì có bún riêu, bún thang, bún mộc, bún ốc.... Bún từ Đàng Ngoài đã theo bước chân Nam tiến đi vào Đàng Trong, rồi chọn đất Thuận Hóa làm nơi nghỉ bước và đâm chồi nẩy lộc thành bún Huế. Bún Huế gồm nhiều loại, mỗi loại có một lịch sử và tính chất độc đáo khác nhau: Bún nước mắm, bún mắm nêm, bún giấm nuốc, bún riêu, bún xáo, bún măng, bún thịt nướng, bún chả tôm, bún bò, bún giò... và bún bò giò heo. Bún bò Huế, tức là bún bò giò heo được ưa chuộng và phổ biến nhất.

Theo thời gian và không gian, bún bò Huế có lúc và có nơi chỉ còn là một cái tên nhưng phẩm chất, đặc tính, mùi vị... đã hoàn toàn biến đổi. Nhiều người vẫn tẩn mẩn tự hỏi, không biết tô bún bò Huế thời vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và tô bún thời vua Bảo Đại thoái trào năm 1954 có gì khác nhau trong cung đình và ngoài phố chợ. Có điều rõ ràng là khách ăn bún Huế sẽ cảm thấy tô bún An Hoà khác hẳn tô bún An Cựu, nơi nầy có thêm lát chả, nơi kia có thêm miếng huyết, nơi nọ có chút rau thơm và chuối cây xắt mỏng lơ thơ. Càng đi xa, tô bún ở Đà Nẵng không giống tô bún Sài Gòn; tô bún Huế Ca-li khác xa tô bún Huế Texas .

Trước 1975, tôi có một người ông bà con, quê ở làng Lương Quán, Nguyệt Biều. Mọi người kêu ông là “Ôn Tứ”, có lẽ vì ông làm quan tứ phẩm của triều đình. Cứ một năm vài ba lần, ông sai tôi chở qua cung An Định để vấn an “Đức Từ”, đó là bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại. “Ôn Tứ” tuổi trên 70 mà vẫn còn đẹp lão như một tiên ông với da dẻ hồng hào và tóc trắng như mây, nhưng hễ cứ mỗi lần tôi khen ông là ông lại nói với giọng nửa như tự hào, nửa như ăn năn:
- Ôn sống thọ đây là tại trời đày vì tội phạm thượng, dám ăn đồ ăn của vua!
Ai cũng biết thuở trước, ông là người hầu cận thân tín của vua Bảo Đại từ Việt Nam qua đến Pháp.. Tôi nghe lạ, hỏi ông, ông giải thích:
- Ngài Ngự làm vua, nhưng là người Tây học. Ngài xử sự công bằng và lịch sự với tất cả mọi người. Hồi còn ở trong Đại Nội, thường có các cận thần hay hoàng thân quốc thích nấu đủ món sơn hào hải vị dâng lên Ngài ăn khuya. Ngài nhận, nhưng sau đó sợ bị mập nên Ngài cứ đưa hết cho ôn ăn. Con coi, ôn ăn hoài cao lương mỹ vị của hoàng đế, “tội to” như rứa mà Trời không phạt răng được!

Trong những lần ngồi đợi ông vấn an đức Từ Cung, trong cái mát lạnh thâm u của cung An Định, tôi có dịp nghe các cuộc mạn đàm của giới thân cận cung đình về các món ăn Huế mà giới quý tộc quan tâm. Bún bò Huế vẫn thường được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là cuộc thi nấu các thức ăn đem ra đấu xảo tại chợ Tết Gia Lạc có từ thời Minh Mạng, do Định Viễn Công Nguyễn Phước Bình, con thứ tư của vua Gia Long lập ra. Chợ Gia Lạc nằm giữa chợ Mai và chợ Nam Phổ ngày nay và cũng là vùng đất có Tùng Thiện Vương và Tuy LýVương, hai vị hoàng thân nghệ sĩ đã vang bóng một thời. Lúc đầu chợ chỉ mở ra cho các người trong thân nhân phủ đệ, sau thấy đông vui hấp dẫn, dân thường trong vùng lân cận như Dương Nổ, Nam Phổ, Thế Lại, Ngọc Anh... tìm đến và cũng được các ông hoàng bà chúa cho vào tham gia buôn bán và tổ chức các trò chơi. Hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp, chợ Mai đông buổi sáng và chợ Nam Phổ đông buổi chiều để nhường chỗ cho chợ Gia Lạc tưng bừng vui hội Tết. Đông vui và nhộn nhịp nhất là trong ba ngày mồng một, mồng hai và mồng ba Tết Nguyên Đán. Đây là phiên chợ của hàng con vua cháu chúa, nhưng đồng thời cũng mở rộng ra cho bàng dân thiên hạ đến vui Xuân. Theo tương truyền, trong một năm, món bún bò giò heo của Mệ Lựu đã chiếm giải nhất và được phê là “Thập toàn. Ngũ đắc”. Thập toàn là mười diều hoàn thiện của một món ăn ngon, đại khái như: ngọt ngào, thơm tho, đậm đà, bổ dưỡng, tinh khiết, bắt mắt, khéo chọn, khéo tay, khéo nấu, khéo bày, bún bò Huế còn được đánh giá cao là vì tính chất bình dân và phổ thông trong bá tính: Mọi người ai cũng biết được, ai cũng ăn được, ai cũng nấu được, ai cũng tìm được vật liệu ngay tại địa phương, ai cũng có thể có dịp mua được (ngũ đắc). Phải chăng vì bún bò giò heo cũng mang tính truyền thống dân gian như bánh chưng, bánh dày thuở trước.

Nếu gặp một người Huế nào đó ở vào lứa tuổi trung niên hoặc già hơn mà hỏi thăm thế nào mới thật là bún bò Huế và bún bò nơi mô ở Huế là ngon nhất, chắc chắn sẽ có hơn chín mươi phần trăm trả lời là, "bún bò Mụ Rớt".
“Bún bò Mụ Rớt có nêm sâm nhung quế phụ vô hay răng mà ngon dữ rứa?”. Một lần nào đó đã có người tò mò lên tiếng. Rồi cũng có người đáp lại, “Có chi mô, mụ Rớt cũng ra chợ Đông Ba mua rau, mua thịt như mình nhưng mụ nấu ngon vì có hoa tay”. Hoa tay? Hoa tay của ông đồ Vũ Đình Liên là để thảo những nét chữ như rồng bay, phượng múa, nhưng hoa tay của mụ Rớt là để nấu những tô bún bò thanh nhã, ngọt ngào “ăn ngậm mà nghe”.

Chừ ri hỉ....!
Cứ tưởng tượng mình đang ở Huế.
Vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa, một buổi trưa không biết ở thời nào, một buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ... Và, có tiếng ve đất cuối mùa kêu sau vườn nhưng nghe như xa lắc. Nắng xế cuối mùa của Huế thường phai như màu tóc muối tiêu. Rồi có tiếng xe đạp của ai đó phanh lại trước sân, ba bốn đứa bạn thân rủ nhau đi ăn bún. Con đường Chi Lăng dẫn về Gia Hội chen giữa hai hàng phố cũ với những căn nhà xưa kiểu Tàu pha một căn hai chái, cột mệ cột con đề huề trông thâm nghiêm nhưng thấp bé một cách tội tình. Trước khi rẽ qua đuờng Ngự Viên đi ngang "mả ông trạng" sau lưng chùa Diệu Đế, hãy ghé lại một căn nhà dãy phố bên phải: Đó là tiệm bún bò Mụ Rớt. Huế làm ăn theo lối "hữu xạ tự nhiên hương", không bảng hiệu, không quảng cáo mà chỉ cần nghe tiếng tìm vào.

Khách vô tiệm tự nhiên và lặng lẽ như ghé lại bến đò. Cứ tìm bàn nào trống, ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu không có chỗ dựa lưng, ngó một loáng bâng quơ người quen và người lạ, sẽ có người hỏi:
- Mấy o, mấy cậu thời bún chi?
Khách chỉ có lựa chọn giữa bún khô và bún nước:
- Dạ, cho mấy tô bún nước
Lát sau, mấy tô bún bò giò heo bốc khói, mùi thơm tỏa ra dìu dịu, được bưng ra đặt trên bàn. Bún được nấu nướng từ sau bức tường của dãy nhà ngang trông vào có vẻ phòng the hơn là bếp núc.

Tô bún bò Huế mới thoạt nhìn, có vẻ đạm bạc và thanh lịch như chiếc áo dài phin trắng nõn nà. Tô bún chỉ lớn hơn bàn tay búp măng xoè ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún trắng nằm sóng soãi vươn lên miệng tô. Nước bún không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng giò heo búp, mỏng bằng hai phần lóng tay. Miếng giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún. Che mái cho tô bún là ba bốn lát thịt bò bắp xắt mỏng, những lát bò bắp với thớ thịt chắc nịch nâu đỏ và những đường vân vàng nhạt của nạm, gầu, gân, sách.

Trên bàn đã có sẵn đũa tre, muỗng sành, nước mắm, ớt tương và rau hành chanh múi. Một dĩa nhỏ hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mưót điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị. Rau hành của bún không phải là rau sống cuả phở, rau chỉ đóng vai trò “nước hoa” cho tô bún. Trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát. Cái cay của ướt tươi là đậm đà, mọng nước, đủ sức khống chế những cao thủ ớt đã nếm đủ vị giang hồ mà vẫn còn thấy nhạt. Cạnh đó là dĩa ớt tương nhỏ xíu màu huyết dụ; ớt tương của bún bò Mụ Rớt cũng được liệt vào hàng "gia vị bún bò bắc đẩu", nhìn thì có cái vẻ mềm như nhung với màu đỏ sẫm, điểm những hột ớt vàng hoe nhưng nếm vào mới biết thế nào là cái “hiền” của Huế. Gắp một tí ớt tương đầu múi đũa bỏ vào tô là ớt từ từ bung ra như nhụy hoa trên mặt nước bún. Hoa hồng thường có gai, nên nhụy hoa bún cũng làm cho biết bao người cay giọt ngắn, giọt dài!

Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện phần nào phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen... là những biểu hiện thường tình trước tô bún.

Khi đã nêm xong, húp một muỗng nước bún khai vị để cảm nhận được cái chất ngọt thanh pha đủ mùi gia vị. Mùi sả, mùi ruốc, mùi xương hầm, mùi thịt luộc, mùi chanh, mùi rau, mùi tiêu hành nước mắm... đã biến chất, đã quyện vào nhau tạo thành mùi bún bò có sức hấp dẫn lạ lùng riêng của nó. Miếng giò heo thanh nhã trong tô bún với lớp da mỏng có bìa da úp quanh miếng thịt nạc như đài hoa chưa nở nên thường gọi là giò “búp”. Cắn miếng giò, những sợi thịt trắng vừa béo, vừa ngọt vẫn còn thơm mùi thịt tươi mới chín nhẹ nhàng bốc hơi trên hai cánh mũi. Gắp lát thịt bò bắp. Lát thịt bò mỏng với những đường gân, sứa thịt và viền mỡ dòn tan giữa hai kẻ răng và vị ngọt béo miên man trên đầu lưỡi. Tô bún bò Huế vơi dần nửa như thách thức, nửa như mời gọi khách rằng, chưa cạn hết tô chưa gác đũa.

Tô bún bò Mụ Rớt được xem là đặc trưng cho tô bún Huế là vì nó mang những nét thanh đạm và đơn giản. Có thể nói cái thanh của bún Huế ví như những nét đan thanh của tà áo trắng, tà áo dài mỏng manh cửa đóng then gài ngỡ như là tử cấm thành của phái đẹp thần kinh, nhưng lại kín đáo phô bày trọn vẹn những nét đẹp trên thân thể của người mặc. Người mặc áo Kimono của Nhật chỉ cần một khuôn mặt đẹp, nhưng người mặc áo dài Việt Nam khó mà che dấu được những nét mỹ miều hay thô thiển của thân hình.. Cũng tương tự như vậy, một tay nấu bún “hạng lông” có thể nấu một tô bún thập cẩm với tấp nập thịt thà rau cải rềnh rang như chiếc áo Kimono, nhưng lại khó có thể nấu một tô “bún-bò-áo-trắng” kiểu Huế thoạt nhìn tưởng như là quá đơn giản mà ẩn dấu lắm công phu.
Linh hồn của tô bún bò Huế là nước bún. Nước bún là nước được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi, và có khi là cây, củ... Phần khó nhất trong việc nấu nước bún là giữ cho nước trong, ngọt thanh, không mỡ màng, không lềnh bềnh gia vị. Những “trường phái” bún bò khác nhau ở Huế thường dấu bí quyết nấu nước bún vừa trong vừa ngọt, nhưng tất cả đều có điểm cơ bản khá giống nhau là cách chọn xương hầm, cách luộc tái rồi đổ nước đầu tiên, cách vớt và lọai bỏ bọt thải đúng lúc, đúng điệu, thường là yếu tố quyết định trình độ cao thấp của “tay nghề”.
Bún sợi thật sự là bún tươi, trắng ngà, có độ dẻo và độ lớn vừa phải.

Thịt heo trong tô bún chỉ đơn giản một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Giò luộc vừa chín, không quá lửa làm cong queo, mềm nhũn, thoang thoảng gia vị vừa ăn; thơm nhưng không mất mùi thịt heo nguyên thủy.
Thịt bò trong tô bún là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với đồ màu và tránh tình trạng quá lửa làm “bò teo, heo nở”.

Gia vị chủ lực của bún bò Huế là sả, ruốc và ớt, nước mắm. Tinh dầu của cây sả có mùi thơm rất nồng, đủ mạnh để làm trung hòa mùi ruốc và giúp cho mùi thịt trộn tiêu hành nước mắm trở nên dịu và ngào ngạt hơn. Dầu sả nhẹ hơn dầu mỡ nên làm cho nước bún nổi sao óng ánh, tránh được những váng mỡ nặng nề làm cho người ăn ái ngại. Một cây sả tươi cần chọn đoạn giữa vừa thơm, vừa phong phú tinh dầu. Đừng quên sả gốc nồng và chát, sả ngọn ít thơm và dễ làm cho nước bún nhiễm màu xanh của lá.

Trong nồi bún, nếu sả quyết định cho hương thì ruốc quyết định cho vị. Ruốc phải đánh loãng và thải hết chất bã. Ruốc nêm lúc nước còn lạnh để khỏi nặng mùi. Ruốc nêm đúng phân lượng sẽ làm cho nước bún có vị ngọt đậm đà và mùi thơm phảng phất chất mắm muối quen thuộc của đồ ăn Việt Nam. Ruốc nêm thiếu, nước bún sẽ “ỏn”, nghĩa là lạt lẽo, kém vị, thiếu mùi như nước ốc. Ruốc nêm thừa, nước bún sẽ “hăng”, nghĩa là mùi vị nặng nề, không tỏa ngát quanh tô bún mà có vẻ như chìm lỉm trong nồi nước bún.

Bên cạnh kỹ thuật và kinh nghiệm của người nấu, chất liệu cũng đóng một vai trò quan trọng cho hương vị của tô bún Huế. Chẳng hạn như thịt heo nấu bún Huế thường lấy từ thịt heo cỏ. Đó là giống heo nhỏ nuôi bằng rau, chuối nấu với cám gạo cốt để vừa lấy phân, vừa lấy thịt. Heo càng lớn càng dài ra và thịt rắn lại chứ không phát triển “sồ sề” như giống heo mẹo nuôi trong kỹ nghệ lấy thịt sau nầy. Giò heo do đó vừa chắc, vừa thơm, vừa ít mỡ. Giò heo lý tưởng cho tô bún là giò sau: “Nấu giò sau, cho nhau giò trước”.

Ngoài ra, rau hành, gia vị... thường được các bà Huế nêm theo kiểu “luyện công” nên mọi thứ đều được tính toán chi li vừa đủ phân lượng cần thiết. Có dịp nhìn một bà Mỹ vào bếp với dáng kích động như muốn nhảy “Disco” với soong chảo, một bà Nam nếm đồ ăn trên lò, miệng chưa tắt nụ cười vui sau câu cải lương mùi mẫn.... mới thấy được hình ảnh tay cầm đũa, mắt đăm đăm, môi chút chíp nêm đi nếm lại như đang “truyền tâm ấn” của một bà Huế trước nồi bún đang sôi là “thục nữ thần kinh”. Chính yếu tố địa phương, hoàn cảnh và tâm lý đã làm cho tô bún bò Huế trở thành ngon và độc đáo hơn vì nó được chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức trong mức độ vừa đủ về lượng cũng như về phẩm.

Sự dễ dãi về hoàn cảnh sinh hoạt và phong phú về điều kiện vật chất có vẻ như có một tác dụng nghịch chiều cho tiến trình tạo nên cái vẻ thanh nhã truyền thống của tô bún bò Huế. Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt như tà áo trắng biến thành áo gấm với phượng vẽ rồng thêu. Bún Huế chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác: Tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô “phở bún” xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò Mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành “bún bò Mụ Rớt Nam Bộ”. Bún bò Huế càng được chiếu cố rộng rãi chừng nào, sự “sáng tạo” và biến thể càng nẩy mầm trăm hoa dua nở chừng đó. Đến nỗi, một người thích “khảo” về các món ăn miền Trung gần đây như ông Đinh Miên đã phải lên tiếng “xóa óa” khi nhắc về bún bò Huế tại Mỹ trong bài “Cơm Việt, Quê Người”: “Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng!” (Việt IX - 95). Ông Đinh Miên thuộc về trường phái “chịu chơi” khi luận về bún Huế. Ông cởi mở đón nhận sự chuyển mình của tô bún với vẻ cười cợt hồn nhiên như người đã biết là không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông. Cũng có người muốn “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” lên tiếng cho rằng, tại sao những món ăn truyền thống của thế giới như Pizza của Ý, Kabob của Ba Tư, Taco của Mễ, Kentucky Fried Chicken của Mỹ, Mì Triều Châu của Tàu... đi đâu cũng nghe cùng một hương vị, mà Bún Bò Huế lại có người nấu Sở kẻ nêm Tần như vậy, sợ một ngày kia “mất giống” tìm đâu!? Có lẽ không ai trả lời được câu hỏi đó vì món ăn là một phần của văn hóa mà gốc của văn hóa là con người. Khi đất nước và con người còn đó thì ngại gì tô bún đổi thay.

Tuổi già của Huế thích lui về sống ẩn dật với quê hương, gần gũi với bà con làng xóm và mồ mã tổ tiên, nhưng tuổi trẻ lại thích bay xa tới những phương trời mơ ước. Niềm ước mơ của một đứa trẻ lớn lên sau lũy tre làng như tôi là làm sao được lên Huế học. Thành phố Huế cách làng tôi chưa đầy một giờ đi xe đạp nhưng đối với tôi thời nhỏ nó vừa thực vừa mộng như một vùng đất hứa. Có những buổi chiều đứng đầu ngõ nhìn những người lên Huế sắm hàng với các món đồ gói trong giấy, trong hộp đầy màu sắc gọi là “đi Dinh mới về”, tôi ước chi mình sẽ được lên Dinh
Tuy không có quy định thành văn nhưng con đường duy nhất để được lên Dinh ăn học đối với tuổi trẻ ở làng như tôi là phải thi đậu “Càng Cua” (concours) trước đã, đó là kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ thất trường công mà trong toàn tỉnh Thừa Thiên chỉ có thành phố Huế mới có. Mẹ tôi thường nhắn gởi: “ Chuyến ni mà con thi đậu "càng cua", cực mấy mạ cũng gắng lo cho con lên Dinh học”.

Mẹ tôi dắt tôi lên Huế hai ngày trước khi thi “càng cua”, đi qua đi lại trước trường Hàm Nghi (ngày xưa là Quốc Tử Giám) nhiều lần cho quen đường đi nước bước. Tôi ở lại nhà chị Quyến tôi nơi đường Ô Hồ. Buổi sáng ngủ dậy, chị kêu gánh bún vào ăn điểm tâm.. Gánh bún õng ẹo trên đôi vai o gánh bún, có khói và hơi bốc nhè nhẹ xung quanh như một đầu máy xe lửa xuống đèo. Nghe chị đặt hàng, tôi có cảm giác hơi là lạ:

- O múc cho tô “trung”, bún vừa, nước xắp xắp thôi. Cho giò nạc búp, thêm cái ngoéo. Đổi huyết lấy bò bắp xắt vô. Khoát bớt ớt màu, bỏ hành rau răm rươi rươi thôi, ớt tương nước mắm bỏ riêng...

Người bán bún chừng như đã quá quen thuộc với lối đặt hàng rắc rối đó nên làm thinh múc bún. Nồi bún nóng thân tròn, miệng uốn trông như chiếc lư đồng cổ không nắp không chân, đặt trên lò lửa riu riu đỏ. Tay o cầm cái vá cán dài, quây một vòng trong nồi bún với dáng tay nhẹ nhàng và điệu nghệ như cô vũ nữ Thái múa điệu cánh sen. Cái vá dừng ở đâu trong nồi nước bún là “bắt” được ngay miếng thịt, miếng giò đang cần, chính xác như ra-đa tìm thủy lôi.

Một lát sau o mới hỏi:
- Ai ăn rứa?
Chị tôi trả lời một cách hãnh diện:
- Thằng em tôi dưới làng lên ở lại thi “càng cua”.
Tự nhiên o bán bún coi bộ quan tâm:
- Nì, nói chuyện vô duyên chơ học trò đi thi không nên ăn giò búp: búp hoài không nở thì mần ăn chi nữa. Để tui múc cho một cặp giò ngoéo: ngoéo trước, ngoéo sau thì rớt đi mô được, thi đậu chắc nụi!

Chị tôi coi bộ cảm động ra mặt vì gặp được “Thầy”... bún, nên nhiệt liệt ủng hộ ngay:
- May có o nhắc chớ không thì khổ em tui rồi. Rứa! Múc ngoéo vô đi o!

Thật tôi không ngờ bún Huế “linh” như vậy, nên hôm đó ăn tô bún Huế mà cảm thấy trân trọng và ngất ngây như uống rượu thánh.

Về làng, tôi thường ăn bún với nước mắm ớt.. Mẹ tôi có mấy lu ruốc bự bành ky để ở nhà dưới, nước mắm nhĩ trong vắt nằm một lớp trên mặt. Đem lúa đổi lấy bún vắt hay bún lá, rồi múc nước mắm nhĩ từ trong lu ruốc, ra vườn hái ớt xé vào. Bún tươi chấm với nước mắm nhĩ pha thêm ớt trái mùa Xuân ăn ngon “nhức răng”. Thêm vào đó, một năm đôi ba lần được ăn bún với nước xáo lòng gà, thịt bò nên chú bé quê trong tôi cũng đã bằng lòng lắm với cuộc đời đầy đãi ngộ nầy rồi. Nay được ăn tô bún Huế với những thịt thà thơm phức, với cách nấu bún công phu, cách múc bún điệu nghệ... làm cho tôi cảm thấy được “lây” cái văn minh sang cả của người thành phố.
Ngày đi thi, tôi dậy sớm trước khi gà gáy lại, hồi hộp chờ trời sáng để tới trường thi, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến tô bún Huế với cặp giò ngoéo có lớp da mềm mềm bao quanh những thớ gân dòn tan như ăn ổi đỏ ở làng. Hình như mới có hai buổi sáng trôi qua mà tôi nghe như đã bị phố phường cám dỗ. Buổi sớm tôi nghe mẹ tôi bàn bạc to nhỏ với chị tôi, rồi tiếp theo đó có người gánh gánh xôi vào trước hiên. Nhìn dĩa xôi đậu xanh chấm muối mè bày ra trước mặt, tôi bắt đầu hoang mang. Mẹ tôi hối:
- Ráng ăn xôi đậu muối mè đi con!

Khi tôi ngao ngán ngáp dài kêu mệt quá và muốn ăn bún chứ xôi đậu, muối mè khô khan quá nuốt không vô, mẹ tôi dịu dàng an ủi:
- Con thi xong rồi, ưng ăn bún cả gánh mạ cũng cho. Con di thi “càng cua” mà ăn bún vô trơn, nói trời không nghe lỗ miệng, chớ nó truột di thì thi hỏng mất! Lúc trước mấy cậu con thi chi hỏng nấy là vì không nghe lời mệ ngoại, cứ dè ngày thi cử mà ăn bún không kiêng cử nên thi trợt tuốt luốt, phải xếp sách vở về quê đi cày. Chừ con gắng ăn xôi đậu, xôi muối mè dính mô chắc nấy, trời mới cho con đậu.

Tôi rướn cổ nuốt cho hết dĩa xôi mè vì thương mẹ hơn là sợ thi trượt. Tới ngày treo bảng, nghe loa đọc tên nhưng tôi không tin là mình đậu “càng cua” thứ nhì trường Hàm Nghi trong số hơn một nghìn thi sinh dự tuyển và có hai trăm trúng tuyển năm đó.

Suốt một đời, tôi không làm sao quên được hình ảnh mẹ tôi với hai hàng nước mắt sung sướng chảy dài trên đôi má phong trần vì lặn lội gieo neo nuôi con. Mẹ tôi nói như đã nắm được bí mật cuộc đời:
- Chộ chưa! Con nghe lời mạ, ăn xôi đậu nên mới thi đậu. Còn thằng Tý xóm Bàu, thằng Rô xóm Cụt, Thằng Lúi lò rèn to béo xắp hai con, nghe nói mỗi đứa ăn hai tô bún để đi thi nên trượt tuốt luốt..

Tôi muốn nói cho mẹ tôi biết bọn thằng Tý, thằng Rô, thằng Lúi... suốt cả mùa Xuân trốn học, thu sách vở trong bụi tre lá ngà đầu làng đi chơi; trong khi tôi học thuộc cháo sách Sử Ký của Trần Đinh, giải hết 1000 bài toán đố của Một Nhóm Giáo Viên, đọc nhuyễn 50 Bài Luận Mẫu và Tâm Hồn Cao Thượng của Hà Mai Anh... Thế nhưng nghỉ sao tôi lại thôi, vì mẹ cũng có một khung trời riêng của mẹ mà tôi chỉ dám núp sau áo mẹ để lặng im chiêm ngưỡng chứ không dám thả cánh chim lý luận làm huyên náo khung trời đó và làm mẹ buồn lòng.
Từ đó về sau nầy, tôi thường cố “cữ” ăn bún mỗi lần có thi cử. Ngay cả hơn 30 năm sau, khi tóc đã điểm bạc trên bước đường lưu lạc ở quê người, có những lần đi thi chuyên môn, đi phỏng vấn việc làm, đi thi tốt nghiệp trong trường đại học Mỹ, tôi vẫn “kiêng” ăn bún nhưng chỉ tìm cách né tránh âm thầm chứ không dám nói ra vì sợ bị chọc quê. Thật ra, mỗi lần đụng đến thi cử là tôi lại nhớ mẹ đến quặn lòng, nên tôi cử ăn bún để được cái cảm giác ấm áp thiêng liêng như hôm đó mình đang có mẹ thật gần

Đến khi lên Huế học, những huyền thoại về bún bò Huế càng có vẻ mọc cành mọc lá sum sê hơn. Thế giới học trò cũng nhỏ bé và xinh xinh như thành phố. Phía sau trường Hàm Nghi của tôi là Viện Bảo Tàng và nhà thờ Nguyễn Phước Tộc hay là Tôn Nhân Phủ.. Bên kia đường là cửa Hiển Nhơn vào Đại Nội. Kế đó, có hai trường văn nghệ nhất Huế, đó là trường Quốc Gia Âm Nhạc và Cao Đẳng Mỹ Thuật mà lũ học sinh nghịch ngợm của chúng tôi thường chọc mấy anh chị sinh viên bằng cách gọi là “Trường Kèn” và “Trường Cọ”. Sinh viên hai trường Kèn Cọ thường la cà ở quán cà phê Tôn, nơi đó, thật ra chỉ là một chiếc xe kiểu xe sinh tố đặt mé trái trước Tôn Nhân Phủ do vợ chồng bác Tôn đứng bán bún bò và cà phê. Giới nghệ sĩ lang thang thường bàn luận một cách công khai rằng, ngày nào vợ chồng bác Tôn không cãi nhau là ngày đó bún bò không ngon vì thiếu đi cái “tinh thần hào sảng” của cặp vợ chồng bác Tôn khi nấu bún.

Giới văn nghệ sĩ cà phê Tôn còn đi xa hơn khi kháo nhau rằng nếu lỡ một mai kia, lịch sử thành thơ đưa họ lên làm lãnh tụ, thì họ sẽ đặt tên con đưòng từ Vỹ Dạ lên Ga Huế là "Đường Cơm Hến" và đường từ cầu An Cựu lên cầu Trường Tiền là "Đại Lộ Bún Bò" vì mỗi buổi sáng tinh sương, dọc trên con đường nầy có cả đoàn bún gánh phát xuất từ An Cựu tỏa ra khắp thành phố Huế. Khói xanh đun nồi bún bay phơ phất trên đường như một sự mời gọi êm đềm: Bún bò An Cựu, cơm hến Đò Cồn, trứng lộn Chợ Dinh, bánh canh Nam Phổ... Cũng may hay cũng buồn, lịch sử không phải là thơ nên tuy Huế có những con đường tình cảm mang tên kỷ niệm và giai nhân bất thành văn như đường Hàng Me, đường Áo Trắng, nhưng vẫn chưa có tên đại lộ Bún Bò.

Bản thân tôi từ một vùng quê ruộng đồng lên tỉnh học, sau mấy năm học đòi văn hóa Huế, cũng bị nhiễm bún bò rất nặng.. Tôi đã ưu tư nhiều về sự hiện diện của bún bò giò heo kể từ khi làm quen với một cô hàng xóm nhân dịp cô đi xe đạp, vạt áo dài tung bay phất phới và cuốn theo chiều gió mà quấn vào trong giây "sên", trong "ổ líp". Tôi bèn ra tay cứu khổn phò nguy gỡ áo em ra và không quên bôi thêm dầu sên lên tay lên mặt cho ra vẻ lẫm liệt, can trường. Tên cô là Mộng Hoàng, tất nhiên có cái họ đi trước rất chi là thế gia vọng tộc. Chỉ mới cái tên thôi cũng đủ biến tôi thành Trương Chi bên cạnh Mỵ Nương đi xe đạp mất rồi. ễ làng, tôi đi từ xóm trong ra xóm ngoài để sưu tầm những tên giai nhân đẹp nhất thì cũng chỉ có những Nguyễn Thị Gái, Trần Thị Chắt, Lê Thị Dẹp... đào đâu ra có Mộng, có Hoàng.

Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe đạp song song chung đường từ Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học. Đôi ba lần Hoàng quay sang phía tôi cười, một phiến ớt màu bún bò tí ti đỏ chói nằm trong góc chiếc răng khểnh trắng nõn nà của Hoàng. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần. Tôi lên tiếng, nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh. Rồi cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe.. Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:
- Ngó dữ chưa tề, dị chết!
Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:
- Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!
Khi lên xe đạp đi tiếp, Hoàng phàn nàn, cái phàn nàn mà tôi cho rằng đáng lẽ ra là một sự biết ơn:
- Me phiền dễ sợ! Sáng mô cũng bắt Hoàng ăn bún bò ớn phát sợ luôn.

Cái "ớn phát sợ" của Hoàng lại là cái ước mơ ngoài tầm tay của đám học trò nghèo như tôi. Cứ tưởng tượng mỗi buổi sáng, khi trời Huế còn lành lạnh mà được ăn một tô bún bò giò heo, có váng mỡ vàng mơ ngã hồng trên mặt, nêm thêm một "múi đũa" ớt tương màu huyết dụ chắc sẽ sáng mắt sáng lòng mà học một nhớ mười. So với một chén cháo gạo với muối trắng của tôi hay một chén cơm chan chút nước mắm ớt của tụi bạn cùng hoàn cảnh ăn điểm tâm trước khi đi học, tự nhiên một cảm giác hơi buồn buồn pha chút tủi thân lặng lẽ dâng lên trong lòng. Bún bò tự nó không có giai cấp, nhưng giai cấp tự nó có bún bò: Phận nghèo bấm bụng nằm co. Giàu thời nem chả, bún bò giò heo!

Tuổi trẻ của Huế êm đềm và dễ hòa diệu sống như giòng sông Hương. Tôi đã quên rất nhanh hình ảnh tô bún bò của Hoàng và chén cháo gạo của tôi. Hai đứa chưa bao giờ dám nói thương nhau mà chỉ lửng lơ nói chuyện đã cùng "thương con đường đi học".. Mỗi cô gái Huế đều có một bà chúa trong hồn và mỗi cậu con trai Huế đều có một ông hoàng trong bụng. Bà chúa thì thích sang mà ông hoàng thì thích ngọt, cho nên tôi đã nhẹ dạ nghe Hoàng dỗ ngọt mà hẹn hò lần đầu lên chùa Thiên Mụ và về ăn bún bò Kim Long. Chúng tôi đã phạm vào hai điều tối kỵ làm tan vỡ bao nhiêu mối tình đầu đẹp như mơ của Huế: Đó là hẹn hò lần đầu không được lên chùa Thiên Mụ và không được ăn bún. Đồi Linh Mụ là đất thần kinh, nơi để chiêm bái chứ không phải là nơi tính chuyện ân tình hò hẹn.. Tình cảm trai gái chớm mầm trên đất thánh thì sẽ không bén rễ trong tim người. Còn ăn bún là trơn tru, không níu kéo như gừng cay muối mặn, nên cuộc tình rồi cũng theo bún mà trôi đi! Rất có thể bà Linh Mụ đã nhìn thấy tôi và Hoàng hò hẹn, cho nên mới "xui" về Kim Long ăn bún. Bởi vậy, nên tới Hè, Hoàng giã từ Đồng Khánh, chuyển qua Jeanne d'Arc để chuẩn bị đi Tây.

Kỷ niệm chia tay cũng êm đềm mà nhức buốt như những cơn mưa phùn tháng Giêng của Huế. Hoàng gởi cho tôi cuốn sổ lưu bút có giấy pơ-luya màu xanh, màu trắng, màu hồng; có thắt nơ tím với câu thơ tiếng Tây quá quen thuộc với tuổi học trò của Huế ghi nắn nót ở trang đầu: "Partir, c'est mourir un peu!... Ra đi là chết trong lòng một ít. Biết nói sao bây giờ?!". Tôi là học trò ban B (Toán - Lý Hóa toàn ròn) nên trong đầu lúc nào cũng lùng bùng ròng những đạo hàm và ẩn số của thầy Trần Tuệ và thầy Hồng Giũ Lưu. Huế lại là vùng đất ưa hò vay trả. Đào đâu cho ra chút văn chương man mác nòi tình mà đáp lại cho Hoàng đây. Tôi bỏ cả việc đi trại Hè để cố đào cho ra dăm câu thơ nếu không “ác liệt” thì ít ra cũng có vẻ môn đăng hộ đối với Hoàng. Bên tê dẫn thơ Tây thì bên ni phải trích thơ Mỹ. Tôi vô thư viện, tìm mục thơ tình lãng mạn để kiếm vài câu làm thuốc. Thơ tình chết tiệt rủ nhau trốn đâu mất cả. Bí quá, bỗng vớ được vài câu thơ đề tựa cuốn sách của Helen Steiner Rice, tôi thấy như mở cờ trong bụng: “Somebody loves you than you know. And will always be with you wherever you go!” (Ai nào thấu hết tình ai.. Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm). Và, để phụ đề Việt ngữ tôi chọn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, đọc đi đọc lại đắc ý nổi da gà: “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!”.
Kèm với thơ thẩn là cái lược bằng gỗ trầm hương, vật kỷ niệm của mẹ, tôi xin và tặng lại cho Hoàng mà bỗng tự cảm thấy mình sâu sắc như một người tình trong chuyện thần thoại;Năm 1992 về lại con đường cũ, đọc thơ Xuân Hoàng mà nhớ bâng khuâng đốm ớt bún bò và nét cười răng khểnh:

Tôi đi trên đường Lê Lợi dọc sông Hương
Nắng trong suốt lọc qua hai hàng long não
Đất nước đổi thay qua bao mùa giông bão
Con đường xưa vẫn dáng dấp diệu kỳ...

Hơn mười năm, tôi mới có dịp trở lại chen chân trên đường phố Huế vào một buổi chiều 29 Tết. Đi trong nắng cuối Đông dìu dịu thương quen của Huế mà cứ ngỡ như mình mới xa Huế hôm qua. Nghĩ đến mai xa Huế tự nhiên tôi có cảm gíác như mình là kẻ phụ tình với Huế. Huế vẫn lặng lẽ chờ đợi như người tình trăm năm mà tôi thì cứ dứt áo ra đi lang bạt kỳ hồ.

Rồi quả đất cũng tròn và thế giới nầy cũng nhỏ nên “những kẻ phụ tình với Huế” vẫn có lúc gặp nhau ở quê người như một sự tình cờ của định mệnh. Hơn 30 năm sau, rất tình cờ, tôi gặp lại Mộng Hoàng ở Little Sàigòn, Quận Cam Ca-li. Tôi nhận ra Hoàng, bà chủ tiệm ăn có tên vừa Tây vừa Huế, nhờ chiếc răng khểnh "thương bắt chết" vẫn tô điểm cho nụ cười duyên dáng ngày xưa. Tất nhiên, tôi từ phương xa ghé vào đây cũng vì món "bún bò Huế chính gốc". Nhắc chuyện cũ, cả hai đứa cùng cười ngặt nghẽo. Giọng Hoàng tuy phảng phất một chút âm vang trời Tây nhưng vẫn chưa phai màu Huế:
- Thời nớ, răng tụi mình dễ thương dễ sợ hí!
Tôi cười cười nhắc lại:
-Sau nớ, còn ai khêu ớt trên răng cho Hoàng nữa không?
Mắt Hoàng bỗng thoáng một chút trầm tư "nhắc làm chi sương khói thuở xa xăm" và ánh lên màu kỷ niệm:
- Lạ chưa tề. Nhắc chi nữa, dị chết!
Tôi nhìn Hoàng. Mắt bâng quơ đậu trên vài ba sợi tóc loà xòa điểm bạc. Hoàng biết và ngúng nguẩy che đi. Hoàng nói thật bất ngờ, giọng trang đài như đọc câu thơ tình thời cổ:
- Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc!
Tôi hiểu Hoàng nói gì nhưng phản ứng như anh học trò cả ngố:
- Thơ của ai rứa Hoàng?
Hoàng trả lời “mần đày”:
-Thơ ai? Thơ ông cai bến đò!
Đàn bà Huế mà đã “mần đày” thì Tần Thủy Hoàng cũng phải biết rằng mình đã lỡ vô tình, cần lẳng lặng chui vào ổ rơm nằm ngủ qua đêm.
Rứa đó! Dân Huế suốt đời vẫn là những đứa trẻ thơ mỗi lần nhớ Huế, nhớ những kỷ niệm đã thiu thiu ngủ trong ký ức và trên quê mẹ của mình.

Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế nấu bằng heo Mỹ, bò Anh, ruốc Tàu, bún Nhật.... Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà thì vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng. Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải Vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ. Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên một tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi “Bún Bò Huế”, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại. Bún Bò Huế không còn là riêng của Huế mà hương sả nồng, vị ớt cay, mùi ruốc mặn đã thấm vào mạch đất quê hương và lòng dân tộc Việt đầy yêu thương nhưng cũng lắm đoạn trường chưa có ngày sum họp.

Trần Kiêm Đoàn

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2009

Minh triết Phương Đông 1

Nguyên văn của Vvn
Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây
Từ sự đối sánh chiều sâu triết học (phương Tây) và minh triết (phương Đông) F. Jullien đưa ra những nhận định sâu sắc, lý thú.

Triết học thiên về sự biết (connaitre), minh triết quan tâm đến sự ngộ (réaliser). Người ta biết những gì chưa biết, đối tượng của ngộ là những gì đã biết (thậm chí biết quá nhiều). Ai cũng biết mình trước sau sẽ chết, mấy ai ngộ được điều này. Ai cũng biết đời mình là như thế, mấy ai ngộ được thân làm tội đời, đời làm tội thân như thế nào... Biết dễ, ngộ rất khó... Cho nên triết gia thích nói, hay nói, lắm lời. Người minh triết ít nói, thường là chăng có gì để nói…

Triết học quan tâm đến chân lý, rành rọt đúng, sai. Minh triết quan tâm đến sự thoả đáng (congruence), đúng sai không quan trọng lắm, miễn là thoả đáng.

Triết học quan tâm đến sự phát hiện (révélation) chân lý, minh triết thiên về sự điều tiết [régulation] sao cho thoả đáng.

Triết học thiên về tính khái quát. Sự khái quát hoá góp phần vào sự tiếp cận bản chất.

Khái quát hoá thường được tiến hành từ một bình diện, như vậy bản chất cũng là được tiếp cận từ một bình diện. Mà một bình diện chưa phải là tổng thể. Một tỷ bình diện cũng chưa phải là tổng thể. Minh triết quan tâm đến tổng thể. Từ cách nhìn này, minh triết nhạy cảm hơn với những sự bất trắc, những sự khôn lường trong tồn tại. Từ cách tiếp cận này, minh triết nhạt] cảm hơn trong sự nhìn thấy cái này trong cái kia, thấy hoạ trong phúc, thấy phúc trong hoạ, thấy cái lợi trong cái hại, thấy cái hại trong cái lợi, thấy vinh trong nhục, thấy nhục trong vinh, thấy cái ác trong cái thiện, thấy cái thiện trong cái ác, thấy sống trong chết, thấy chết trong sống, thấy ngày trong đêm, thấy đêm trong ngày... thấy âm trong dương, thấy dương trong âm.

Đạo là con đường. Con đường của triết học bao giờ cũng dẫn tới đâu đó... tới chân lý, tới cõi chí thiện, tới cõi toàn mỹ tới miền đất hứa , tới thiên đường... tới Thượng đế, Đạo của minh triết không dẫn tới đâu cả... đạo là con đường ở đó... sự sống có thể sống được (viable), mọi sự rồi thì qua được... chỗ đi tới của đạo là ở sự đổi mới của bản thân nó.

Minh triết Phương Đông 2

“Ngày Jullien mới sang Việt Nam lần gần đây nhất, tôi nói với ông là khi đọc sách nói về cái phổ quát của ông, có những chương, những đoạn tôi không hiểu gì cả. Tôi ngạc nhiên và thích thú khi ông trả lời rằng Hegel sở dĩ là Hegel vì có chỗ không hiểu Kant. Nếu biết tất cả thì ông ta chỉ dừng lại ở chỗ là học trò của Kant mà thôi”.
Bữa tiệc triết học
Câu chuyện này do giáo sư Hoàng Ngọc Hiến kể. Giáo sư Hiến - người uyên bác và đã chuyển ngữ khá nhiều tác phẩm của triết gia Jullien như Xác lập cơ sở cho đạo đức mà lại nói với tác giả là nhiều chỗ không hiểu. Jullien trả lời: “Tôi nói nhiều chỗ ngay cả người Pháp cũng không hiểu. Khi sang Đức, tôi giới thiệu với giới ưu tú, toàn viện sĩ, học giả. Một trí thức lớn đã đặt câu hỏi và qua câu hỏi đó, tôi biết ông không hiểu gì cả”.
Giáo sư Hiến cho rằng không hiểu hết Jullien là điều bình thường. Vậy mà tác giả Bùi Văn Nam Sơn vừa trả lời phỏng vấn báo chí rằng triết học không còn là đặc sản của những “thiên tài” và triết học trong tư duy người Việt Nam đồng nghĩa với “quá khó”. Vậy làm thế nào nó trở thành món ăn tinh thần của mọi người?
Điều này khiến ta liên tưởng đến hiện tượng các tác phẩm của triết gia François Jullien đã tạo nên một sự sôi nổi ở Việt Nam trong những năm gần đây. Vì triết học đã “dễ đi” hay là một nhu cầu năng lực tư duy trừu tượng đã giúp cho con người để định hướng “trong mớ bòng bong cuộc đời”. Triết gia Jullien sinh năm 1951, không phải là một ông già râu tóc bạc phơ. Khi 44 tuổi ông đã được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn quốc tế các nhà triết học. Là giáo sư Đại học Paris 7, Viện trưởng Viện Tư tưởng đương đại, ông cũng là tiến sĩ văn học.
Theo lời giới thiệu của giáo sư Lê Hữu Khóa trong cuộc trao đổi của Jullien tại Trường đại học Sư phạm TP.HCM tháng 9-2008 thì Jullien là một triết gia, một tác giả, tư tưởng gia, nhà lý luận hàng đầu nhận diện văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Mười lăm tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt bởi các học giả, giáo sư, nhà văn nổi tiếng như Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc, Minh Chi, Phan Ngọc, cha con nhà giáo Trương Ngọc Đệ và Trương Thị Anna, Đinh Châu, Đào Hùng, Lê Huy Quang…
Năm 2005 tại Viện Đại học Huế đã diễn ra hội thảo quốc tế triết học François Jullien. Ông trở thành một sự kiện đặc biệt đối với không khí học thuật ở Việt Nam và Nhà xuất bản Đà Nẵng đã phát hành nhiều tác phẩm của ông, những tác phẩm mà chắc chắn là số đông thị hiếu dễ dãi không đủ sức quan tâm.
Cái vấn đề Jullien quan tâm đã “đưa nền triết học phương Tây của ông vào một cuộc phiêu lưu lớn, tạo nên một cuộc đối mặt thật triệt để: Viễn Tây đối mặt với Viễn Đông” (Nguyên Ngọc). Ông cho thấy các lỗ hổng, điểm mù lớn của triết học phương Tây cũng như Minh Triết phương Đông, qua đó người đọc hiểu được điểm mạnh, yếu và “sáng tỏ được ngọn nguồn sự trì trệ của phương thức sản xuất châu Á trong sự sản xuất tinh thần”. Có lẽ vì thế tác phẩm Jullien nóng tính thời sự.
“Tôi cảm nhận thấy những nhược điểm trong tư duy về thời gian của người phương Đông. Chính cái nhìn luôn bám lấy quá khứ, tự mãn với quá khứ là một trong những nguyên nhân khiến cho các xã hội phương Đông bị trì trệ” (Đào Hùng). Những công trình của ông làm nổi bật vai trò triết học trong đối thoại của những nền văn hóa, đưa ra phương pháp luận làm đổi mới tư duy triết học.
Trong chuyến thăm Đại học Sư phạm TP.HCM, Jullien muốn trao đổi hai vấn đề: (1) Các giá trị phổ quát chuyển thành các giá trị vĩnh hằng như thế nào và (2) Giao lưu đối thoại giữa các nền văn hóa. Ông cho rằng người châu Âu có thời nghĩ văn hóa của họ là phổ quát, khống chế nền văn hóa khác là sai. Phải đặt vấn đề sống chung giữa các nền văn hóa.
Jullien nói rằng nếu các bạn thấy tôi nói toàn vấn đề trừu tượng thì đó là cái khổ của nghề tôi. Ông sợ “cách giới thiệu của tôi sao nó lý thuyết vậy”. Nhưng không phải ông muốn tỏ ra cố chinh phục hoặc làm hấp dẫn người nghe theo thói thường. Người nghe vẫn theo sát suy nghĩ của ông.
Cuộc tiếp xúc của ông với thiền sư Lê Mạnh Thát và các trí thức Phật giáo tại Viện nghiên cứu Phật học TP.HCM có vẻ như thiếu thời gian. Ở đâu cũng vậy, các câu hỏi được đưa ra rất nhiều. Từ các khái niệm triết học cho tới các vấn đề văn hóa, lối sống. Trong cuộc nói chuyện của giáo sư Jullien tại trung tâm Minh Triết Việt ngày 8-9-2008, ông nói về cái tiêu cực trong cách nhìn triết học Đông - Tây và thái độ với nó, về cái phổ quát “không phải là cái cố định, bao trùm mà nó là một nhân tố để phá vỡ cái khép kín”, về minh triết và thời hiện đại.
Các câu hỏi của người nghe cũng thật lý thú: Nhà thơ Việt Phương xui Jullien đánh giá về sự phân biệt của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến giữa chủ nghĩa cá nhân đạo đức và chủ nghĩa cá nhân văn hóa. Ông Nguyễn Khắc Mai đặt vấn đề người ta tìm kiếm sự thông thái ở đâu? Phải có nhiều minh triết hơn nữa trong quản lý chứ không phải chỉ có kiến thức. Ông Mai cũng cho biết dự định của giới học thuật sẽ đi tìm định nghĩa minh triết và đi tìm diện mạo của minh triết Việt. Tiến sĩ Trần Văn Thành hỏi Phật giáo có mối quan hệ thế nào với minh triết… Đó quả là một bữa tiệc triết học trong chuyến đi của Jullien đến Việt Nam.
“Sang Viễn Đông, trở về Viễn Tây”
Trong buổi chiều tiếp xúc với thiền sư Lê Mạnh Thát và trí thức Phật giáo đầy thân tình, Jullien tâm sự về cuộc “sang Viễn Đông trở về Viễn Tây” của mình. Theo ông, trong giới triết có hai loại người: một là có hoài bão đi tới, loại thứ hai là đi xa để nhìn lại mà ông tự nhận mình ở trong đó. Ông chọn cách dùng cổ học Trung Hoa để nhìn lại những gì người ta đã dạy ông ở châu Âu, nhờ vậy mà phương pháp luận của ông có nhiều điểm lạ. Ông đi khỏi dòng triết học châu Âu để hiểu các khoa học xã hội khác, cách phân loại khác, các ngôn ngữ mới, đặt câu hỏi mới chưa ai nghĩ tới.
Ông không giống một số học giả “đu qua đu lại so sánh giữa hai cơ sở lớn tư duy Hy Lạp - Do Thái, vì như thế là vẫn ở trong nó, cõng nó”, mà đã đi thật xa, đứng càng xa càng rõ và tìm ra câu hỏi: Vì sao hai nền tư tưởng Đông - Tây cùng tồn tại trong nhân loại, cùng phát triển song song mà như chưa bao giờ đối thoại với nhau, xích lại gần nhau? “Tôi muốn đi ra ngoài, không phải đi du lịch, mà là đi đào xới, đánh thức những gì bị vùi lấp, xem câu hỏi nào ở phương Đông đã đặt ra rồi mà không thấy xuất hiện ở phương Tây” - Jullien tâm sự.
Jullien với người Việt Nam
Vì sao tác phẩm Jullien sôi nổi ở Việt Nam?
Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cho biết: “Đời tôi may mắn nhất là gặp được Jullien. Tôi là một anh Tây giả (học giả nghiên cứu phương Tây), ít biết phương Đông. Tôi biết lỗ hổng ấy của mình nên cố đọc các học giả phương Đông của ta. Tôi nhận ra một điều là các vị ấy đều uyên thâm, rất giỏi. Nhưng đọc xong, tôi không nhớ gì cả. Còn đọc Jullien tôi lại nhớ vì ông đã đưa hơi thở hiện đại vào triết học, còn các vị học giả của ta thiếu hơi thở thời đại. Ngay Andre Cheng, giáo sư - nhà triết học Trung Quốc cũng còn nói rằng nhờ đọc Jullien ông mới hiểu Trung Quốc hơn”.
Nhà giáo Trương Quang Đệ và con gái ông - cô Trương Thị Anna đều là dịch giả hai tác phẩm của Jullien mang tên Đại tượng vô hình và Bàn về cái nhạt. Ông Đệ đánh giá Jullien là tầm nhìn mới với Đông phương học. Triết học Jullien nói mỗi nền văn hóa có một trí năng riêng, cách tư duy, nhận thức riêng. Hai trí năng phát triển độc lập. Vậy Jullien ở trong công chúng Việt Nam thế nào?
Ông Đệ nói: “Đọc Jullien, nhiều người Việt Nam tìm thấy mình, nhận thức lại một số phạm trù minh triết, lối suy nghĩ phương Đông của mình. Mình phải tiến theo phương Tây phát triển. Chữ nho để đó. Lẽ ra Việt Nam phải có những nhà Đông phương học nhưng chưa có. Thường thì các học giả của ta uyên bác diễn giải, nhưng ít đặt vấn đề, thí dụ tại sao có tư tưởng Mạnh Tử, tại sao Khổng Tử không được dùng. Người phương Tây chú ý đặt vấn đề đó. Nền văn minh cổ nước nhà không thể dẹp một bên nghiên cứu cho vui. Các học giả Việt Nam biết nhiều vẫn mới ở cấp độ học giả chứ chưa có cấp độ triết gia. Các tiếng dân tộc của ta toàn do người phương Tây nghiên cứu. Cây cỏ Việt Nam cũng vậy!
Ông Đệ gặp Jullien lần đầu ở Paris, nhân một chuyến sang Canada thăm con. Ông kể lại buổi tiếp xúc ấy: “Khi đó tôi dịch cuốn Đại tượng vô hình của ông. Trước lúc gặp ông, tôi phải đọc rất nhiều Mạnh Tử, Luận ngữ, Trang Tử và cũng hồi hộp ngại vì gặp một bác học. Ở Pháp họ xếp loại giá trị rất khác. Việt Nam tôn vinh các nhà khoa học, còn họ đặc biệt tôn vinh những người nghiên cứu cổ như Hy Lạp, Ai Cập, Trung Hoa… Tôi đã phải ngồi chờ hơi lâu vì ông tiếp khách đông như… bác sĩ ở ta khám bệnh! Mà mỗi người chỉ được trao đổi 15 - 20 phút là ra, dù Tây, Tàu, Nhật, Ấn. Tôi cần ông giải đáp một số vấn đề triết học, thuật ngữ. Ông hỏi vì sao người Việt quan tâm các tác phẩm của ông. Tôi bảo đọc ông, chúng tôi nhìn thấy chính mình, hóa ra mình có cái này, cái kia mà mình lại không biết. Cuộc gặp gỡ đó hồi hộp đến nỗi chỉ có tôi lên gặp ông, còn vợ tôi và cháu Anna ngồi ở dưới đợi. Sau cuộc gặp thành công, cả nhà mừng quá, kéo nhau đi ăn”.
Khi sang Việt Nam, nhà triết học trẻ ấy không dùng tivi, điện thoại di động, vi tính. Ông đi khắp nơi, khi về Pháp ở trong một biệt thự hoang tàn suy nghĩ, viết lách. Công cụ hiện đại đã có thư ký lo. Theo ông, cái đầu mới là quan trọng, ông không sợ những lạc hậu kiểu công cụ đó. Nó không là nhân tố quyết định trong trí tuệ ông. Có thể ông có lý, có thể ông cực đoan. Nói đến đây, ông Đệ cười: “Archimede từ thời làm gì có vi tính mà trí tuệ đã vượt trội hơn ta bây giờ nhiều. Galois 19 tuổi làm gì có nhiều kinh nghiệm sống nhưng ông nhìn ra được quan hệ toán học mới. Trí tuệ không phải phụ thuộc công cụ nhiều lắm”.
Jullien rất cảm động thấy bạn bè quý trọng, đưa ông đi thăm thú khắp nơi. Tổng Biên tập Đà Linh của Nhà xuất bản Đà Nẵng đánh hẳn cái xe ra đưa Jullien đi làm việc, đi chơi, đi ăn với bạn bè ở Hà Nội. Ở TP.HCM, Anna dẫn ông đi thăm chợ Bến Thành, nhà thờ Đức Bà. Bạn bè đưa ông đến ăn ở quán Trịnh Công Sơn. Jullien nhớ bữa ăn món Huế do gia đình ông Đệ nấu, nhớ cuộc đãi khách của chị Tố Nga - vợ giáo sư Hiến. Ở Hà Nội, giới trí thức đưa ông đi thưởng thức đủ loại: “sang” thì vào Hanoi By Night để massage, “hèn” thì ăn cơm bụi đầu hè. Khi ngồi trên chiếc ghế con ở quán cơm bụi, Jullien nói: “Đây là phút thú vị nhất đời tôi vì chỉ có được ở Việt Nam”.
Theo NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

Phật giáo trong thơ Bùi Giáng

Không kể đến những thiền sư thi sĩ, Bùi Giáng là người duy nhất trên văn đàn Việt Nam có nguồn thơ thâm mật, trác tuyệt lấy từ cõi Phật giáo uyên nguyên. Ngôn ngữ Phật giáo trong thơ Bùi Giáng vừa là “thuật ngữ chuyên môn” của Kinh, vừa là thứ rất riêng của Bùi Giáng.
Với thứ ngôn ngữ đó, Bùi Giáng đã đưa kinh Phật về với cõi ba đào tuý luý tình mộng đổ xiêu của mình, cõi thơ Bùi Giáng trở nên lãng đãng bóng dáng, ngôn ngữ tinh mật thuyết thoại cùng bể dâu tuế nguyệt. Thơ Bùi Giáng vì vậy thấy gần gũi mà xa lạ; giản dị mà khó hiểu vô cùng.

Bùi Giáng suốt kiếp rong chơi – rong chơi cả trong tư tưởng, mặc dù ông đã phiêu du qua lắm ngõ ngách của cõi Đông – Tây nhưng chưa một lần ông chọn cho mình một ốc đảo cụ thể nào để quay về nương tựa. Trong ông là cả một đống tư tưởng hỗn-độn-hoà-hiệp của “đìu hiu con nhạn Hocderlin, con ngỗng trời bất tuyệt Nguyễn Du, con hạc vàng huyền ảo Nervel, con sư tử hống thời phương thảo lục Nietzsche”, của đức Lão, đức Khâu, đức Phật…

Công bằng mà nói, Phật giáo là nguồn “tài trợ” hào phóng cho cả thơ và đời Bùi Giáng. Xét về lối sống, Bùi Giáng đã phụng hiến cả đời mình. Ông học thói tiêu dao đã lệch xiêu của Đạo giáo, học kiểu sống tuỳ duyên, sắc sắc không không của Phật giáo theo cố chấp riêng của mình… Nhưng đậm đặc hơn cả vẫn là tư tưởng của Phật giáo. Ở điểm này, chưa thấy tu sĩ Phật giáo nào “học cùng bài” với ông lại làm như ông cả. Bởi ông là môt dạng thức của việc áp dụng thái quá và tổng hợp những tư tưởng mà ông học hỏi được. Vì vậy mà Bùi Giáng sống một đời phá chấp phá tướng gần như huỷ hoại, cố vùng vẫy thoát ra mắc lưới “chấp có lại dính chặt vào chấp không”: phá tướng phong nhã, hào hoa, nhà cao, cửa rộng lại trở về ưu ái chiếc áo trùng điệp màu sắc bẩn thỉu, quần lớp ba lớp bảy ngắn ngoài dài trong, ngủ phố, ngủ hè…

Phật dạy con người trở về với bản lai diện mục, Bùi Giáng hô hào đi tìm “nguyên mộng”, “nguyên xuân” và “trở về cố quận”. Thế giới thơ Bùi Giáng là thế giới biểu tượng thơ mộng và dịch giải ra, ấy là lời Phật. Bùi Giáng có lúc cao hứng còn cho rằng: có ngày “mưa nguồn”* sẽ chuyển dịch thành “kinh điển thơ ca… lúc đó Tăng Ni… sẽ ngâm thơ thay cho tụng kinh đọc chú”. Bùi Giáng nói như vậy, tất nhiên, trừ ông ra mãi mãi sẽ không có ai nói lời tương tự. Cho nên, nội lực thâm hậu của Bùi Giáng chỉ có thể là “tiếp dẫn đạo sư” cho nguồn thơ Việt, là ngọn gió tọc mạch khiến cho mây bình nguyên vần vũ đảo điên chứ không thể không ít nhiều làm đổ rụng, xiêu lệch tư tưởng Phật giáo uyên nguyên. Nhưng trừ những cố chấp đó ra, Bùi Giáng vẫn tỏ ra xứng đáng với danh hiệu “thi sĩ Bồ tát” mà giới bạn đọc đã dành tặng cho ông.

Xưa nay người ta nói nhiều về chữ “Tâm”: Nguyễn Du “lẩm cẩm” nói đi nói lại trong “Kiều”; Nguyễn Trãi bằng cách này cách nọ cũng mang chữ “Tâm” đi thuyết thoại lòng người; Trịnh Công Sơn diết da gào kêu đằm thắm: “Sống trên đời sống cần có một tấm lòng”… và đến Bùi Giáng thì “tướng tuỳ tâm hiện”. Nhưng “tâm” Bùi Giáng thì hiện rặt những tồn hoạt đổ xiêu, trăng thuở trước, sóng ngàn sau… Qua đổ rụng thấy hoa lá rung rinh, qua thể thân chuyển dịch thấy thể thân được tao phùng với bao điều mới mẻ, tinh khôi trong mỗi phút, mỗi giờ:

“Đường đi ngõ quạnh lang thang,
Niềm vui tao ngộ muôn vàn lạ thay.
Trái tim mỗi mỗi mỗi ngày,
Mỗi giờ phút đọng mây trời rung rinh”.

Ấy là sự chuyển dịch, đổi thay của không gian, thời gian, bản chất và hiện tượng. Thời gian đi là nước đi. Hay đời người cũng đi? Bùi Giáng buộc mình ý thức trong từng sát-na sự ra đi của xác thân, của tình yêu, của vạn vật trong cõi ban sơ:

– Thân xương máu đã đành là uỷ mị.
– Em ở lại với đời ta em nhé.
– Em về mấy thế kỷ sau.
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không.



“Mỗi sáng tôi nhìn mặt trời mọc trong mây,
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới”.
(Nhìn thấy – “Đêm ngắm trăng” tr.27)

Có ý thức từng hơi thở vào ra mới thấy sự quý trọng và cần thiết của hơi thở. Bình lặng thở vào, mỉm cười thở ra, dẫu “mặt trời lặn”, “mặt trời mọc” thì hơi thở cũng trong lành và tĩnh tại.

Nhìn vạn vật đổi thay, em hãy là tấm gương sáng trong để tất cả qua đi soi mình vào đó. Sống là phụng hiến, là vươn lên. Nếu em buông thả cho tất cả qua đi trong vô ý thức, cuộc đời sẽ xám đen một màu ảm đạm. Đừng tỏ ra bất cần và chẳng hề tỉnh táo để nhận diện sự mầu nhiệm xung quanh. Nhưng nếu em “đưa tay nắm bắt để cầm; (em sẽ) nghe trong chút nắng sương chầm chậm bay”. Nắng giữ chẳng được, buông thả không xong, tất cả qua đi trong ý thức. Cứ nghe chim hót, lá reo. Cứ nhìn mặt trời mọc, mặt trời lặn mỗi sớm, mỗi chiều để thấy một bình minh, một mặt trăng đang nhón gót đến gần. Đừng cố níu giữ làm gì, rồi mặt trời sẽ mọc, mặt trời sẽ lặn, mỗi ngày mỗi mới, em sẽ tìm ra đúng nghĩa một đời vui.

Tha thiết cầu cứu cho chuồn chuồn, châu chấu, nguyên mộng, nguyên xuân… thơ Bùi Giáng vì vậy văng vẳng lời kêu “phản quan tự kỷ”. Chỉ với thiên nhiên huyền nhiệm, ta đã giàu có mà ta lại làm “cùng tử lang thang” đi tìm cầu mọi thứ để khi sức mòn lực kiệt mới thảng thốt gào kêu: Cố hương ơi, đường trở về sao quá xa xôi! Ôi quê hương, cố quận! Ôi, nguyên mộng, nguyên xuân! Cuối cùng rồi ta cũng gặp ngươi, gặp lại tình ta. Hoát nhiên ta “đại ngộ” vì sao Bùi Giáng nói:

“Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà”.
hay :
“Từ đâu ngươi đến? – Từ đây ta về”.

Hành trình lữ thứ để quy hồi cố quận, có ai ngờ, càng đi càng xa. Hãy đi để trở về, “hãy đến đi để thấy”, “hãy như thực tri chứng”. Cũng như:

“Người nằm ngủ thấy gì,
Thấy rất nhiều nắng lạ,
Những chùm bông rất xanh,
Có lẽ bông là lá.
Người nằm ngủ thấy gì,
Chẳng thấy gì hết cả.
Ngài thử nằm ngủ đi,
Đừng hỏi gì hết cả”.
(Có lẽ – “Mưa nguồn…” tr. 359)

Nắng, lá, bông ngươi thấy không như thấy. Cái ngươi thấy sẽ khác cái ta thấy. Hãy ngủ đi để thấy, hỏi có ích gì. Hãy bỏ chân xuống tháng ngày, đừng bắt chước bọn thi sĩ lếu láo “quanh năm ru rú trong tháp ngà mà liên miên thuyết thoại về dâu biển tinh sương chan hoà tuế nguyệt”? Lời suông có ích gì, chỉ méo mó xiêu lệch mà thôi. Không ai lấy cắp được đoá hoa trong tâm hồn người khác, mặt trăng rỗng tuếch tư niệm soi xuống nhân gian như ngàn vạn đoá hoa dâng tặng hồn người. Bùi Giáng cảm nhận được và cố chỉ cho người khác nhưng lại khuyến cáo “ngón tay không phải là mặt trăng”. Không đến sẽ không thấy, kẻ “như thực tri chứng” trong trường hợp này chỉ biết ngước mắt nhìn trăng thơ mộng mà cảm thương: ước gì ta có thể cho ngươi vầng trăng đẹp này!

Đọc thơ Bùi Giáng không bằng hiểu Bùi Giáng. Hiểu Bùi Giáng không bằng cùng Bùi Giáng bỏ chân xuống tháng ngày. Bảo rằng nhìn thơ Bùi Giáng qua nhãn quan Phật giáo là nhạt nhẽo, méo mó… Hãy đến đi, để thấy… Dẫu sao, Bùi Giáng cũng từng nhắn nhủ: “Chúng ta quên một cách quá dễ dàng, vắng một nhà tư tưởng tác động một cách thiết cốt nhất, chính là những điểm ông bị kích bác hơn là những điểm ông được tán đồng”. Biết vậy, Bùi Giáng mặc ai khen, ai chê, đã “tự tại với tâm” thì “tự tại với pháp”.

Yến Tử
(Nguồn: Liễu Quán)

Giáo dục giới tính ở Mỹ

Nguyễn Hải Hoành dịch
Nguồn: tạp chí Khoa học và Văn hóa số 5-2009

Sáu năm trước, một bà mẹ người Hoa đem đứa con trai vừa tròn 9 tuổi của mình đến nước Mỹ định cư tại New York. Đây là một thành phố đầy rẫy màu sắc tình ái nhục dục. Chưa cần nói phố 42 khu Manhattan có cả một khu phố đèn đỏ nổi tiếng bất hảo, mà riêng chuyện đứa trẻ ngày ngày đến trường phải đi qua một loạt cửa hiệu bán đồ chơi tình dục (sextoy) đã đủ làm cho bà mẹ ấy hết sức lo lắng. Trong hoàn cảnh như vậy, cháu bé 9 tuổi kia khi lớn lên trên đất Mỹ đã nhận được sự giáo dục giới tính ra sao? Hãy nghe chính bà mẹ kể lại.
Cấp tiểu học: nhận thức chính mình

Một hôm con trai tôi đi học về. Như thường lệ, tôi mở vòi nước vào đầy bồn tắm để chuẩn bị tắm cho cháu. Chẳng ngờ cháu lại nói: “Mẹ ơi, từ nay trở đi không cần mẹ tắm cho con nữa đâu!” “Sao thế?” – tôi cười hỏi lại. “Giáo viên môn sinh lý bảo, vì con là nam giới nên con không được tùy tiện để cho mẹ nhìn thấy cái penis của mình!” Trời ơi, thằng nhóc học được ở đâu thứ lý luận kỳ quặc như vậy nhỉ! Tôi vừa bực mình vừa buồn cười: “Vũ này, con còn bé, mẹ tắm cho con là chuyện rất bình thường thôi mà.” Nói đoạn tôi vừa vỗ về vừa định giúp cháu cởi quần lót. Ai ngờ cháu gạt tay tôi ra và hét to: “Mẹ đừng chạm vào người con, con cũng có cái riêng tư của mình chứ!”. Thấy thái độ cháu rất nghiêm chỉnh, tôi đành thôi, trong bụng thầm trách các thầy cô giáo ở trường cháu đã “bé xé ra to” cái chuyện vớ vẩn này.
Tối hôm ấy tôi lựa lời hỏi Vũ xem giáo viên môn sinh lý đã nói gì trên lớp. Câu trả lời của cháu làm tôi há hốc miệng kinh ngạc. Thì ra giáo viên đã cho học sinh cả lớp xem các tranh vẽ đàn ông đàn bà khỏa thân để chúng hiểu được sự khác biệt rõ rệt nhất về sinh lý giữa nam với nữ là ở bộ phận sinh dục. Thằng bé nhìn tôi đàng hoàng nói: “Thầy giáo nói rồi, penis của con trai và vulva của con gái đều thuộc vào những thứ riêng tư kín đáo của một người, không được để bất cứ ai nhìn thấy hoặc sờ vào, trừ thầy thuốc.” Khi nói câu ấy, vẻ mặt cháu tỉnh bơ hoàn toàn không ngượng nghịu chút nào. Điều khiến tôi không ngờ tới là chẳng những cháu đã biết các kiến thức sinh lý như sự trưởng thành phát dục của cơ thể, quá trình phụ nữ mang thai và sinh đẻ, mà thằng bé chưa đầy 10 tuổi này thậm chí còn chuyển đề tài, nói về sự quý giá của sinh mệnh và tính chất quan trọng của tình bạn nam nữ. Xem ra giáo dục vỡ lòng về giới tính người Mỹ dạy cho trẻ em còn lồng ghép cả nội dung giáo dục tính người: Biết quý trọng mạng sống và yêu quý người khác giới.

Cấp trung học cơ sở: Trực diện và hướng dẫn

Một hôm cháu Vũ mang về một bản thông báo của nhà trường cho biết cuối tuần này ở trường có một buổi lên lớp về kiến thức giới và tình dục, nội dung gồm việc tránh thai và đề phòng bệnh đường sinh dục. Bản thông báo ghi rõ: Nếu phụ huynh không đồng ý cho con em mình dự buổi học này thì phải ký tên vào một giấy trả lời nhà trường, sau này nếu trẻ xảy ra các hiện tượng như phá thai, mắc bệnh AIDS... thì phụ huynh không được trách nhà trường chưa dạy các em biết việc đó. Cuối bản thông báo viết, nhà trường hoan nghênh phụ huynh tới bàng thính giờ dạy về giới tính và tình dục.
Do lâu nay đã muốn đến trường con mình học để “trinh sát” tình hình nên dĩ nhiên tôi không bỏ lỡ dịp này. Tôi đến trường, mang theo tâm trạng cho rằng giờ học kiến thức về sex chắc hẳn sẽ có không khí nghiêm trang và gò bó, ai ngờ thực tế lại không thế. Giờ học bắt đầu, cô giáo trẻ và xinh đẹp lấy phấn viết lên bảng chữ “SEX” to đùng. Sau đó cô mỉm cười nói với toàn thể học sinh: “Bây giờ cô hỏi các em nhé, khi nhìn thấy chữ SEX này các em nghĩ tới chuyện gì nào?”
Tôi thật chẳng ngờ giáo viên lại đi hỏi lũ con nít một vấn đề vớ vẩn như thế.
Một em trai tóc xoăn phát biểu đầu tiên: “Sex khiến em nghĩ đến chuyện di tinh ạ.” Lập tức trong lớp có tiếng cười rì rầm.
Một em gái hơi có vẻ ngượng ngập nhỏ nhẹ nói: “Sex khiến em nghĩ tới chuyện mang thai ạ.” Mấy bạn khác bụm miệng cười.
Một học sinh gốc châu Á tóc đen bất ngờ thốt lên một câu: “Thưa cô, sex khiến em nghĩ đến chuyện làm tình ạ!”
Lũ trẻ bỗng nhốn nháo, rì rầm xì xào, nhiều em gái đỏ mặt.
Lúc ấy một em trai da đen thân hình cường tráng nói với giọng ồm ồm: “Sex khiến em nghĩ tới người đàn bà không mặc quần áo gì cả ạ ...” Câu nói vừa dứt, các học sinh khác cười toáng lên, có mấy em ném bút và vở về phía bạn ấy. Lớp học như nổ tung, lũ trẻ cười ha hả khoái chí lắm.
Các em học sinh tiếp tục thoải mái phát biểu. Lũ trẻ có sức tưởng tượng thật là phong phú. Cô giáo liên tiếp viết lên bảng những từ: “Làm tình, dáng điệu, phá thai, hôn, gợi dục ...” Một số từ ngữ bình thường ngay cả người lớn cũng khó nói ra miệng, thế mà lũ trẻ lại nói thoải mái, hoàn toàn không thấy có ý nghĩa xấu hổ, tục tĩu.
Sau khi cả lớp yên tĩnh trở lại, cô giáo nhìn lên tấm bảng đen đầy chữ rồi chau mày nói: “Các em phát biểu nhiều thế mà vẫn còn sót mất một từ có vô vàn mối quan hệ chằng chịt với sex ...”
Lũ trẻ thì thầm rì rầm bàn tán với nhau, suy nghĩ, phỏng đoán. Lát sau, cô giáo lẳng lặng quay người, ấn mạnh viên phấn lên bảng, viết nắn nót từ “LOVE” !
Lớp học bỗng dưng im phăng phắc.
“Tình yêu!”, cô giáo nói với giọng chan chứa xúc cảm, “Tình yêu – đó là tình cảm thuần khiết thiêng liêng nhất, cao cả nhất giữa hai giới tính. Sex không có tình yêu thì chỉ là cái xác không hồn! Người ta có khi bàn tán om xòm về nhục cảm, khoái cảm nhưng lại bỏ quên mất một điều: Sex cần phải có tiền đề là Yêu. Trong đời sống, những hiện tượng như có thai ở tuổi vị thành niên, phá thai, mắc bệnh đường sinh dục ... thông thường là do các hành vi tình dục vô trách nhiệm gây ra ...”
Lời cô giáo nói tràn đầy sức truyền cảm. Lũ trẻ vừa nãy cười sặc sụa bây giờ đều trở nên nghiêm chỉnh, trang trọng.
Tiếp đó cô giáo nói cho các em học sinh biết, quan hệ tình dục không có gì là đê tiện hèn hạ, cũng chẳng có tính phạm tội; nó là mối quan hệ tự nhiên, đẹp đẽ; nhưng học sinh trung học nếu quá sớm bước vào đời sống tình dục thì sẽ không có lợi cho sức khỏe và việc học hành; để xảy ra mang thai ngoài ý muốn và phá thai là điều vô cùng đau khổ.
Sau cùng, cô giáo chiếu lên màn hình một đĩa CD giới thiệu các phương pháp tránh thai. Lũ trẻ đón xem với thái độ đặc biệt nghiêm chỉnh. Trông bộ dạng chăm chú của các em cứ tưởng chúng đang xem một đồ thị ba chiều trong toán học.
Sau giờ học, tôi gặp thầy giáo chủ nhiệm lớp con tôi để trao đổi ý kiến. Khi tôi hỏi cháu Vũ có chơi thân với bạn gái nào trong lớp hay không, thầy chủ nhiệm có chút ngạc nhiên: “Rất xin lỗi thưa bà, tôi chưa bao giờ hỏi học sinh những chuyện riêng tư của chúng. Con bà rất xuất sắc, nếu có em gái nào yêu nó thì cũng là chuyện rất bình thường thôi ạ.” Tôi vội giải thích là tôi lo ngại cháu yêu đương quá sớm sẽ ảnh hưởng tới việc học tập. Thầy chủ nhiệm nói liền mấy câu “No” “No”... rồi hùng hồn giảng giải: “Tình yêu sẽ làm trẻ em trở nên thông minh hơn, tự tin hơn. Trách nhiệm của phụ huynh học sinh chỉ là ở chỗ hướng dẫn cho con mình khi say sưa yêu đương phải biết cách tránh thai!”

Cấp trung học phổ thông: Thông cảm và tin nhau

Chẳng bao lâu cháu Vũ nhà tôi đã lên lớp 9. Khi thấy cháu bắt đầu mọc ria mép, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng ở chỗ đặc trưng thứ hai về giới tính của cháu phát triển lành mạnh, mới tròn 15 tuổi cháu đã cao 1,7 mét. Lo ở chỗ văn hóa tình dục của xã hội phương Tây có tác dụng chất xúc tác đối với lũ trẻ đang ở tuổi dậy thì– nghe nói ở Mỹ hằng năm có hơn 1 triệu em gái mang thai; hiện tượng quan hệ tình dục trước hôn nhân trong nam nữ thiếu niên đã trở thành vấn nạn của xã hội.
Đúng vào lúc tôi đang lo lắng về việc liệu cháu Vũ nhà tôi có thể bình yên vượt qua thời kỳ rạo rực của tuổi thanh xuân hay không thì bỗng nhiên có tin: Theo đề án của Sở Giáo dục thành phố New York, các trường trung học công sẽ phát miễn phí bao cao su cho học sinh trung học phổ thông!
Nhiều phụ huynh người gốc Hoa rất bất mãn với đề án này. Theo tôi nghĩ, cách làm ấy chẳng khác gì sự ngầm ra hiệu hoặc dung túng cho lũ trẻ ăn vụng trái cấm.
Tôi cuống cuồng đến ngay nơi con mình học, yêu cầu nhà trường đưa ra lời giải thích biện pháp bậy bạ cung cấp bao cao su cho trẻ em.
Một giáo viên tư vấn tâm lý phụ trách công tác học sinh tiếp tôi. Xem ra bà giáo này rất hiểu nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nói năng có tình có lý đâu ra đấy: “Tôi đã tiếp xúc với rất nhiều phụ huynh học sinh người gốc Hoa, nói chung họ cai quản dạy bảo con cái quá nghiêm ngặt. Việc họ khăng khăng cấm đoán tình dục là không khôn ngoan và nguy hiểm.”
Hình như phát hiện thấy tôi có chút ngạc nhiên nên bà giáo tiếp tục giải thích: “Sau khi bước sang thời kỳ dậy thì, lượng hooc-môn trong cơ thể lũ trẻ tiết ra tăng mạnh, chức năng tình dục phát triển nhanh, cộng thêm vô số tác dụng kích thích tình dục từ bên ngoài, chúng sẽ càng mạnh mẽ yêu cầu giải tỏa được hưng phấn tình dục và căng thẳng tình dục của mình; nhưng lũ trẻ lại không có điều kiện sống như người lớn, do đó nhu cầu tình dục của chúng bị ức chế, vì thế sinh ra tâm lý lo lắng bồn chồn của thời kỳ dậy thì. Xin hỏi, ai có thể bảo đảm con cái mình sẽ không vì một phút rung động nhất thời mà có hành động mất kiềm chế?”
Ngừng một lát, bà nói tiếp: “Chẳng phải người Trung Quốc các vị có câu thành ngữ phòng bệnh hơn chữa bệnh đó sao? Nhà trường cung cấp bao cao su cho các em học sinh chính là nhằm ngăn chặn hậu họa đấy, thưa bà. Bản thân bao cao su không thể làm tăng hoạt động tình dục của học sinh song lại có thể giảm bớt một cách hữu hiệu hiện tượng các em gái mang thai và sự lây lan các bệnh tình dục. Xin bà thử nói xem, chả lẽ như thế lại không tốt hay sao?”
Cuộc trao đổi ý kiến với giáo viên tư vấn tâm lý khiến tôi xúc động hồi lâu, tôi không thể không thừa nhận việc nhà trường cung cấp bao cao su thoạt xem có vẻ bậy bạ song thực ra lại tràn đầy tính người, thể hiện sự quan tâm, yêu thương của xã hội đối với lớp con trẻ.
Ít lâu sau, một lần vào ngày nghỉ cuối tuần, tôi và cháu Vũ cùng xem truyền hình. Bỗng dưng trên màn hình xuất hiện pha đặc tả cảnh hôn hít và ân ái khá lâu. Tôi bất giác chột dạ định chuyển sang kênh khác nhưng lúc ấy bộ điều khiển từ xa lại đang ở trong tay cháu. Trước cảnh hoan lạc kéo dài của đôi trai gái, tôi phát ngốt lên, đứng ngồi không yên. Liếc sang con trai thì thấy ngược lại cháu vẫn ngồi ngay ngắn, mắt không rời khỏi màn hình, chẳng hề có chút lúng túng nào sất. Nhìn bộ dạng cháu khoái chí chăm chú dán mắt vào chiếc ti-vi, tôi nghĩ bụng: “Thằng nhóc này quá chín muồi rồi đấy, xem những cảnh tình ái hot thế mà vẫn cứ điềm nhiên như không.”
“Mẹ ơi, mẹ đừng nhìn con bằng ánh mắt như thế được không? Con trai mẹ chẳng có ý nghĩ gì bậy bạ đâu ạ!” – bất ngờ thằng nhóc chọc tôi một câu.
Thấy con chủ động gợi chuyện, tôi vội nắm lấy cơ hội: “Vũ này, mẹ hỏi con nhé, con đã có bạn gái chưa đấy?” Cháu thản nhiên đáp: “Có chứ ạ, quan hệ giữa con và cô ấy còn trên cả mức bình thường nữa kia!”
Trống ngực tôi bất giác đập thình thịch. Thấy bộ dạng căng thẳng hồi hộp của tôi, nó đắc ý liếc tôi một cái rồi nói với giọng bông đùa: “Xin mẹ chớ có căng thẳng thế, con trêu mẹ tí thôi mà!” Nói đoạn cháu đứng dậy tắt cái ti-vi rồi bất ngờ hỏi: “Mẹ ơi, mẹ xem con có sức hấp dẫn của một trang nam nhi không nào?”
Nhìn con mình đẹp trai ngời ngời, tôi cố ý chỉ cười không nói gì. Bỗng dưng cháu thốt ra một câu làm tôi vô cùng sững sờ: “Con chờ bao giờ lên đại học xong xuôi thì sẽ kiếm một cô bạn thông minh gợi cảm làm người yêu của mình. Chắc chắn cô gái ấy sẽ xuất hiện trong đời con. Vì cô ấy, bây giờ con dốc sức lao vào việc học tập, không bận tâm gì đến chuyện yêu đương. Xin bảo đảm với mẹ sau đây hai năm nữa con nhất định sẽ thi đỗ vào một trường đại học hàng đầu của nước Mỹ!”
Bất giác tôi trợn tròn mắt, thì ra con trai mình đã chín chắn hơn mình tưởng tượng rất nhiều. Trong bối cảnh nền văn hóa sex của nước Mỹ, trải qua bài học vỡ lòng về giới tính và sự giáo dục giới tính ở tuổi dậy thì, con trai tôi bây giờ đã đủ khả năng có thái độ thản nhiên như không đối với vấn đề tình dục. Sex trong lòng con tôi là một điều tự nhiên và tươi đẹp, không có chút gì thần bí và xấu hổ. Trong xã hội phương Tây đầy rẫy những quyến rũ tình ái nhục dục, con trai tôi lĩnh hội vấn đề sex bằng một trái tim bình thường, dùng ý thức giới tính lành mạnh chín muồi để kiềm chế được mọi nỗi rạo rực sinh lý ở tuổi dậy thì.


Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2009

Phiếm luận về Văn dĩ tải đạo

Đọc lệch giết người
Phan Khôi
Hoa Sen đưa lên Blog với tựa đề Văn Dĩ Tải Đạo:

Thừa đêm mưa gió, một tên đạo chích lén trộm chiếc chuông của chùa làng, và bị bắt. Nội vụ giải đến huyện quan. Ai cũng tưởng tên trộm sẽ bị tù, nào ngờ quan huyện tha ngay hắn về.
Không bao lâu, làng lại bắt được một tên trộm chiếu và cũng giải nạp lên huyện đường. Nhưng lạ thay, quan huyện dạy đem chém đầu tên trộm chiếu.
Hội đồng làng chẳng hiểu ra sao cả, trộm chuông là trọng tội mà được tha, còn trộm chiếu coi như cắp vặt lại bị giết, thế là cả hội đồng làng kéo nhau lên huyện đường để nhờ quan chỉ dạy.
Huyện quan tỏ ra là bậc “dân chi phụ mẫu” dạy rằng:
“Các ngươi làm sao hiểu thấu phương cách chăn dân trị nước của bậc Thánh hiền. Ta đây xét xử mọi việc đều theo sách vở nghìn xưa để lại, bởi sách có câu: Phu tử chi đạo kỳ chung thứ giả, nghĩa là Đức Phu tử dạy, trộm chuông thì hãy tha. Lại có câu: Triều văn đạo tịch tử khả hỉ, nghĩa : Triều đình truyền ăn trộm chiếu thì phải tội chết, bởi các ngươi còn tối sách vở thánh hiền thì làm sao thông đạt nghĩa lý.”
Hội đồng làng gật gù, tỏ vẻ khâm phục xá dài nói:
“Bẩm quan ngài, Ngài quả là người thông đạt thiên kinh vạn sử, lũ chúng con sao sánh bằng.”
Vì bị chết oan, hồn tên trộm chiếu vất vưởng xuống Diêm đình đầu cáo Diêm Vương cho quỉ sứ lên bắt hồn quan huyện xuống đối chất.
Diêm vương phán hỏi:
“Nhà ngươi xét xử thế nào mà tên nầy xuống đây kêu oan?”
Huyện quan thưa: “Bẩm Diêm chuá, chúng con đứng ra chăn dân, cầm cân nẩy mực lẻ nào không hiểu lời Thánh hiền dạy. Sách có câu “Phu tử chi đạo kỳ chung thứ giả” và “Triều văn đại tịch tử khả hỉ”. Con đã theo đúng sách vở mà tha cho tên trộm chuông và giết tên trộm chiếu để răn dạy kẻ khác.”
Nghe xong Diêm vương vổ án:
“Thôi rồi, Nhà ngươi làm đến chức Huyện quan mà hiểu sai bét cả sách vở Thánh hiền thì làm sao sao không giết oan uổng mạng người “Phu tử chi đạo kỳ trung (không phải chung) thứ giả”, nghiã là Đạo của Phu tử chi đạo kỳ trung thứ giả. chữ trung là trung dung, tức cái đạo không thiên về mặt nào mà mi đọc lệch chung ra cái chuông. Còn câu kia Triêu (không phải là triều là chữ đồng tự dị âm), văn đạo tịch tử khả hỉ, nguyên văn câu của thầy Nhan Hồi, học trò đức Khổng Tử viết để tỏ nhiệt tình với đạo của thầy có nghĩa “sáng mà nghe được mùi đạo trung thứ chiều chết cũng cam”.
Triêu mà mi đọc là lệch là “triều” là triều đình, còn tịch là “buổi chiều” tịch dương mà mi đọc là “chiếu”. Để rồi giết oan một mạng người. cái dốt của nhà ngươi sẽ còn gây thêm nhiều oan khổ cho dân lành. Vậy ta bắt nhà ngươi đầu thai làm chó để bù tội lỗi.”
Quan lại sợ hãi, khúm núm thưa van xin:
“Thưa Ngài, Ngài có cho con đầu thai làm chó xin Ngài thương tình cho con làm con chó nái.”
Diêm vương ngạc nhiên hỏi:
“Chó đực hay chó cái đều là kiếp chó. Tại sao nhà ngươi xin đầu thai làm chó nái?”
“Bẩm Ngài, sách có câu “Lâm tài mẫu cẩu đắc, lâm nạn mẫu cẩu miễn”, con muốn đầu thai làm chó nái để “Gặp tiền thì chó mẹ được hưởng, gặp nạn thì chó mẹ được miễn.”
Xin Ngài cho con làm chó nái.”
Diêm vương lắc đầu, chán nản:
“Thôi lại là cái dốt đặc cán mai của nhà ngươi. Lâm tài mẫu (mẫu đây có nghĩa là không nên chứ không phải mẫu là mẹ) cẩu đắc, lâm nạn mẫu cẩu miễn nghĩa là: gặp tiền tài không nên lấy bừa bãi, gặp nạn chớ bỏ qua. Thế mà nhà ngươi hiểu ra “Chó nái dễ được tiền, tránh được tai nạn”. Thôi ta không cho ngươi đầu thai làm chó nái mà phải chôn sống nhà ngươi.”
Huyện quan than khóc: “con đập đầu trăm lạy nếu Ngài chôn sống con xin ngài rộng lượng chôn từ cổ trở xuống”.
Diêm Vương hỏi: "Chừa đầu cho mi thở"?
Huyện quan thưa:
“Thưa sách có câu: Thiên niên mai cốt bất mai tu (tu đây có nghiã là xấu hổ, giống như cọp chết để da người ta chết để tiếng) tu ở đây không phải là râu nhưng Huyện quan hiểu rằng ngàn năm chôn xác chứ không chôn râu …” (VN thi nhân tiền chiến trang 85)
Xã hội thời phong kiến, không phát triển về tự do ngôn luận hay nhân quyền, bởi vì đời sống dân trí còn thấp, nhưng ngày nay cũng nhiều nơi trên thế giới dù đất nước phát triển, thống nhất, hoà bình nhưng vẫn còn dung túng bọn quan lại dốt nát, không học nhưng mua bằng cấp ăn trên ngồi trốc có điạ vị cai trị dân độc tài bóc lột làm đất nước thêm khổ đau, người dân luôn sống trong trình trạng thấp cổ bé miệng! Chúng tôi xin đốt nén nhang tuởng nhớ cụ Phan Khôi mong Cụ chia sẻ với thế hệ chúng tôi, dù ngày nay là thế kỷ thứ 21!! vẫn còn như ngày Cụ còn tại thế!!


Sau khi ngâm cú Nang thang tui bèn xuất hứng Phiếm luận về Văn dĩ tải đạo:
Kính thưa Bác HS
Kính thưa Các Gúy Dzị Bờ Lốc Gơ
Văn dĩ tải đạo. Đúng vậy! Nếu văn không dĩ tải đạo thì văn phải dĩ tải đời mà nếu không dĩ tải đời thì phải tải cái chi đó chớ! Phải không Bác HS và Gúy Dzị Bờ Lốc Gơ. Cái bài ni trước đây Nang Thang tui có may mắn ngâm kíu và đã Hoác ra được nhiều Chân Ní mới nạ, nếu Gúy dzị cất công ngâm kíu chắc cùng sẽ hoác ra được nhiều điều bổ ích cho cuộc sống. Phàm đã là chữ nghĩa Thánh hiền thì ai cũng có thể học được, cho nên vị Quan kia đã học được một mặt còn mặt kia Diêm Vương lại học được như dzậy xét cho cùng mỗi người học được một phần và đã bổ sung cho nhau thật là toàn diện Gúy dzị ạ, xin Gúy dzị hiểu cho mỗi ní nuận đều có 2 cái Nề của nó nà: “Nề Chái - Nề Phải” mà vị quan nọ dùng cái Nề bên này còn Diêm Vương lại dùng cái Nề bên kia dzậy thôi. Nang Thang tui có may mắn được ưu tiên bồi dưỡng ở “cấp cao” về ní thuyết này nên có ý định mở một một nớp tập huấn “Chiển khai” “Ní Thuyết” “Nề Chái - Nề Phải” nếu trong Gúy dzị có ai muốn ngâm kíu Ní thuyết ấy xin niên hệ để đăng ký chước, sau khi ngâm kíu viết thu hoach xong Gúy Dzị sẽ được cấp Chứng chỉ miễn phí, việc đi nại, ăn uống Gúy dzị phải tự no. Ní thuyết này nà một noại tài niệu cổ Gia truyền dzất quý do vị Quan nọ truyền lại cho Hậu duệ của ngài, và vị Hậu duệ ấy phổ biến chong Nuận văn “Chiến Xỉ” được viết bằng chữ “Háng” với đề tài cấp Lanh Tẹc Na Xô Nan Lơ: “MUÔN NĂM CHƯỜNG CHỊ NHẤT THỐNG GIANG HỒ”.
(Để tham gia Nớp chiển khai này có hiệu quả Gúy dzị phải ngâm kíu chước nịch xử và thân thế xự nghiệp của Nhậm Ngã Hành, muốn biết Nhậm Ngã Hành nà ai thì phải hỏi Doanh Doanh, muốn hiểu Doanh Doanh thì phải hỏi Lệnh Hồ Xung, muốn hiểu Lệnh Hồ Xung thì phải hỏi Nhạc Linh San, muốn hiểu Nhạc Linh San thì phải hỏi Nhạc Bất Quần, muốn hiểu Nhạc Bất Quần thì phải hỏi Nguyễn Cao Kỳ Duyên, muốn hiểu Nguyễn Cao Kỳ Duyên thì phải hỏi Nguyễn Cao Kỳ... Chời ơi! Xin Gúy dzị đừng la ó... Nhiều Gúy dzị chắc xẽ phải phản đối và thắc mắc, sao lại kỳ quặc như dzậy????? Xin thưa rằng không có chi kỳ quặc cả nó nằm chong mối ní nuận nô dzzích của Ní thuyết ấy mà, Gúy dzị cứ bình tỉnh mà ngâm kíu sẽ Đại Hoác ngay mà. Bởi dzì thế này Nguyễn Cao Kỳ chước đây nà Tướng “Ngụy”, mà đã là tướng ngụy tức thị là “Ngụy Quân”, Nguyễn Cao Kỳ Duyên là con của Nguyễn Cao Kỳ tức là con của “Ngụy Quân”, mà con của “Ngụy Quân” thì ÔNG THẦY thường gọi nà “Ngụy Quân Tử” đã là Ngụy Quân Tử thì còn ai hơn Nhạc Bất Quần, mà Nhạc Bất Quần lại sinh hạ ra Nhạc Linh San.... Cứ như thế Gúy dzị cứ nuận ngược nên rồi xẽ hiểu dza cái Ní thuyết này nó thâm sâu vô cùng. Có nẽ đến đây Gúy Dzị đã HOÁC được Văn dĩ tải cái chi đó chưa ạ? Xin cám ơn Gúy Dzị đã nắng nghe. Mời Gúy Dzị nán lại ít phút để Em Nó gửi cái phong bì 100 đô gọi là tiền ăn trưa ấy mà. Chúc Gúy Dzị thành đạt và “Năm mới đổi mới ti dzi”.
Nang Thang