Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2010

Bùi Giáng: người tiên lạc bước hồng trần

Sảng khoái phì phèo vài khói thuốc
Trăm năm hồ dễ cuộc rong chơi
Miên Như

Bài của tác giả: ĐOÀN VỊ THƯỢNG (THỂ THAO & VĂN HÓA)
Đã được xuất bản.: 30/10/2010 06:00 GMT+7 Tuan bao Vietnam

Bùi Giáng có lần bị một người bán hủ tiếu đánh bị thương khá nặng, phải vào bệnh viện. Người thân của ông định "trả thù", nghe vậy, nằm trên giường bệnh, ông nói: "Hãy tha cho họ, họ là người thường mới đánh mình, vì họ không biết mình là con nhà trời. Nếu kiện, họ đi tù, lấy ai bán hủ tiếu cho bà con ăn".
Người ta chứng kiến, trong cuộc sống, Bùi Giáng thỉnh thoảng có những hành vi, sinh hoạt khác thường, chẳng hạn mặc một lần nhiều bộ quần áo lên người; ra đường hò hét, huơ gậy giữa đám đông; thản nhiên đứng tắm nơi vòi nước công cộng..., rồi kết luận là ông điên (cũng do một phần, ông thường tự nói là mình điên trong nhiều bài viết, bài thơ). Thật ra, có lẽ đó chỉ là biểu hiện của một tâm hồn linh nhạy thái quá, do tố chất (khuynh hướng) siêu hình sung mãn ẩn chứa bên trong "đẩy đưa" mà thành ra bên ngoài như vậy.
"Lỡ từ lạc bước bước ra"
Trong con người Bùi Giáng có một tố chất mẫn nhạy với cõi siêu hình. Cũng một sự kiện, thậm chí một câu thơ vu vơ (nhưng tất nhiên phải hay), ông dễ liên tưởng đến những ý nghĩa, tư tưởng diệu vợi phía sau nó. Chẳng hạn với câu thơ "Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm" của Xuân Diệu, ông "phát hiện" đó chính là nói về tâm hồn của những thi sĩ phiêu bồng, luôn "bị" những cái vu vơ "kêu thầm" để mà lãng đãng, để mà suốt đời lên đường tìm kiếm một cái gì đó, và rốt cuộc để mà hệ lụy.
Một đối tượng của siêu hình ám ảnh ông nặng nhất chính là việc con người sinh ra. Vì sao sinh ra? Sinh ra rồi tại sao lại chết? Thuở đầu đời cầm bút, ông đã có 2 câu thơ hay nói về điều này: Lỡ từ lạc bước bước ra/ Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn. Ông cho rằng sinh ra đời đã là "lỡ từ lạc bước bước ra" và phải đi tiếp mãi trên đường đời không thể chống chọi lại. Và "chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn" cũng là cách ông nói về sự gắn kết tâm thức mình với những rừng hoa trên núi ngàn quê ông, cái đẹp của chúng mà ông lần đầu được ngắm đã thành cái mênh mông xa vắng mãi trong tâm hồn ông. Lại có lần ông viết về mình: "Thi sĩ sinh ra giữa cỏ cây ly kỳ gây cấn và sẽ chết đi giữa cây cỏ gây cấn ly kỳ". Đó là cách nói quá thiết tha mẫn nhạy về cái cảm trạng ông sinh ra đời và làm thơ, nó đứng ở mép rìa cõi... điên, và ông bị cho "nói điên" là vì vậy.
Khi được ai đó mời ăn tô phở hay hủ tiếu, ông thường lựa ăn... thịt trước. Người ta hỏi "ăn vậy sao ngon?", ông đáp ngay "thì cái ngon nên ăn trước chớ rủi chết bất tử thì sao"! Qua đó, người ta dễ kết luận "Bùi Giáng điên", nhưng rõ ràng là sâu xa trong ông, cái chết luôn ám ảnh thường trực. Có lần ăn mì Quảng (món ăn rất quen thuộc ở quê ông), ông chợt thở dài quay sang nói với ông bạn "ta ăn hai ngàn tô mì nữa ta chết". Ông bạn ngớ người. Nhưng đó là một câu nói... thăm thẳm!
Điều đó lý giải vì sao, bên cạnh làm thơ, Bùi Giáng đã nhanh chóng cùng lúc đi sâu vào nghiên cứu, luận bàn triết học và có nhiều tác phẩm "đánh động" về lĩnh vực này.
Người trời?!
Cũng vì "cái tật" hay vào quán... hò hét, chỉ trỏ, Bùi Giáng có lần bị một người bán hủ tiếu đánh bị thương khá nặng, phải vào bệnh viện. Người thân của ông định "trả thù", nghe vậy, nằm trên giường bệnh, ông nói: "Hãy tha cho họ, họ là người thường mới đánh mình, vì họ không biết mình là con nhà trời. Nếu kiện, họ đi tù, lấy ai bán hủ tiếu cho bà con ăn".
Nghe hai chữ "người trời", ai cũng lén cười, nhưng có lẽ Bùi Giáng nói... thật. Trong tâm thức ông luôn có những "giọng nói", "hình ảnh" siêu hình chất chứa. Nhiều lần, ông bật thốt những cái tên như Thích ca, Jesus, Khổng Tử, Trang Tử... cho đến Shakespeare, Nietzsche, Heideger... một cách tự nhiên để giải thích một điều gì đó trong câu chuyện đang nói, như thể những vị đó đã luôn là "bạn" của ông trong mọi lúc mọi nơi.
Những khi Bùi Giáng đứng chỉ tay rối rít giữa những ngã tư, nhiều người quen rất lo có ngày ông bị đụng xe (nhưng có cái lạ là ông không bao giờ bị đụng). Hỏi: "Đã có công an làm trật tự giao thông rồi, nhà thơ làm vậy chi nữa?", ông chỉ tay lên trời đáp: "Ta đâu có chỉ đường cho loài người. Ta chỉ đường cho các thiên thần đang đi lại trên trời kia kìa". Hồi giữa những năm 1960, có lần nhà văn - thầy giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường đi tìm ông và thấy ông đang ngủ cạnh một ngôi mộ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nhà văn đánh thức ông dậy, quát to: "Về nhà ngủ". Ông ngồi dậy, đưa tay lên miệng suỵt suỵt mấy tiếng, bảo "Mi nói nhỏ thôi để những người dưới mộ ngủ ngon".
Như thế cho thấy Bùi Giáng có năng lực... nhìn thấy người trời và người âm? Điều đó chỉ mình ông biết thôi, vì cũng chỉ mình ông nói ra. Nhưng qua các sự việc ấy, ít ra, ta thấy ông có khuynh hướng siêu hình mạnh mẽ. Nó đã chi phối không chỉ tư tưởng, thơ ca mà cả cuộc sống đời thường của ông. Ông quả là nhà thơ phiêu bồng theo cái nghĩa tinh mật của từ này.
Thiền tọa và tịnh khẩu
Có một Bùi Giáng ở nhà rất khác với Bùi Giáng ở ngoài đường phố. Nguyễn Thanh Hoài, người cháu rể ở chung với ông nhiều năm cuối đời, có lần hỏi "cháu thấy ở trong nhà mình đây, bác tỉnh táo và còn... khôn hơn người ta gấp trăm lần, vậy mà ai cũng nói bác điên, vậy bác điên giả bộ hay điên thiệt?" .
Ông cười trả lời: "Ta vốn là con trai cả trong nhà. Nhưng vì mẹ ta là vợ thứ nên ta trở thành con thứ sáu, gọi là Sáu Giáng. Tuy thế, vì ta là con cả nên trong nhà từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, tụi nó đều bắt ta đứng ra giải quyết, nên chi thôi ta... điên cho nhẹ người. Vì vô lẽ ăn rồi cứ đứng ra giải quyết ba cái chuyện trời ơi. He he, đã điên thì làm sao mà đứng ra hòa giải cho được". Đây cũng là một... triết lý, nhưng là một triết lý khôn "không thể nói" của con người nông thôn miền Trung còn lưu cữu trong con người nhà thơ phiêu bồng phố thị.
Cũng theo người cháu này, có những lúc Bùi Giáng ở hẳn trong nhà cả tháng trời. Suốt tháng đó, ông không hề mở miệng nói một câu, thậm chí cũng không đọc thơ vốn là nhu cầu "máu thịt" của ông. Ông chỉ nói một, hai từ trong những lúc cần thiết trao đổi. Ví dụ "ăn cơm không?", đáp "ừ"; "ăn thêm chén nữa?", đáp "không"... Và hình như "công án" tịnh khẩu dài lâu như thế không phải là điều dễ thực hành (ngay cả với người tu chân chính), cho nên người nhà thỉnh thoảng lại thấy ông lấy những áo quần cũ rách ra để ngồi vá. Ông vá thật khéo tay, miếng nào miếng nấy "đẹp như người ta vẽ". Chúng ta đồ rằng, với "công án" vá may đó, ông đã thực hành pháp chánh niệm của Phật giáo (chăm chú an trú trong hiện tiền, với việc mình đang làm từng giây phút) để rồi mới có những miếng vá "tuyệt vời" như vậy.
Bùi Giáng thường thức dậy rất sớm, mới tù mù sáng, ông đã ra khỏi nhà. Và thường thì đến khi tối mịt, ông mới về. Nhưng trong nhiều năm cuối đời, dù dậy sớm "phiêu bồng" đâu đó đến khuya, mỗi ngày ông đều ngồi thiền khoảng một tiếng vào hai "thời": khuya và sáng sớm. Nhiều vị tu sĩ cho biết: "Ngồi thiền đều đặn như thế giúp cho tâm trí và cơ thể cân bằng, có nhiều năng lượng sống". Chúng ta lại đồ rằng, Bùi Giáng đã rất "tỉnh táo" khi chọn cách tịnh khẩu và ngồi thiền như thế. Tố chất siêu hình nhiều khi khiến ông có vẻ "điên", nhưng cũng chính cái đó "đẩy" ông đến gần hơn với thế giới của tôn giáo nghiêm mật và minh triết.
Những lập ngôn minh triết
Không kể đến văn chương, ngay trong những trò chuyện đời thường, Bùi Giáng hay có những câu nói ấn tượng. Chúng mang tính "thông điệp" siêu hình riêng của ông chăng?
Có lần bị bệnh, người quen đến thăm, xuýt xoa, ông chậm rãi nói: "Ta có bệnh chi mô, chẳng qua ông trời hắn khó ở, hắn bệnh nên ta mới bệnh theo". Lại là lời nói... điên, nhưng thực ra... chính xác lạ kỳ. Ai cũng biết, khi đất trời, thời tiết chuyển đổi, cơ thể con người cũng bị ảnh hưởng, và người đang yếu lúc ấy lâm bệnh là phải.
Năm 1969, ông vào Bệnh viện tâm thần Biên Hòa, nhưng chưa đầy một năm thì ra viện. Có người hỏi "bệnh viện chữa hay quá nhỉ?", ông tỉnh rụi: "Đâu phải vậy. Tại ta ở ngoài đời điên số một, nhưng vào trong thì thấy mình... đồ bỏ. Có nhiều đứa hắn điên còn rực rỡ hơn mình nên ta phải tự động thôi điên... cho khỏe". Dễ hiểu với cái kiểu "điên khôn" như vậy, ông mới viết được hàng chục cuốn sách triết học rối rắm mà thông tuệ. Cũng có khi ông làm bộ nói thay cho người đời bằng những câu thơ: "Ông điên mà dzui dzẻ thập thành/ Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn thiu".
Vậy cho nên, lúc ra viện, ông đã trêu bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh, người trực tiếp chữa bệnh điên cho ông, với câu nói thay cho ông bác sĩ: "Hỏi chuyện ngài để thăm dò chứng bệnh, rốt cuộc ta không còn biết là ngài điên hay chính ta điên". Những câu nói như thế thường khiến những người dù là trí thức cao cấp chăng nữa cũng phải xem lại cuộc sống và cả những tư duy máy móc của mình.

Thứ Năm, 28 tháng 10, 2010

Những người 'bất lực' trên Cánh đồng bất tận

Tác giả: HOÀNG HƯỜNG
Bài đã được xuất bản.: 28/10/2010 06:00 GMT+7 trên Tuần bào Vietnam
Với phim Cánh đồng bất tận, nỗi niềm của các nhà phê bình, sự tiếc nuối của họ không phải không có lý, nhưng âu cũng có lý do của nó.
Khỏi nói độc giả văn học, mà ngay cả nhiều người trước đó thờ ơ với văn hóa đọc cũng từng bị lôi kéo vào thế giới của Nguyễn Ngọc Tư, sau khi bị những cánh đồng miền tây Nam Bộ của cô huyễn hoặc.
Một cảnh trong Cánh đồng bất tận, Ảnh BHD
Không giật gân câu khách, không đao to búa lớn, giọng văn nhẹ nhẹ thoảng thoảng mà đau như dao cắt, với những câu chuyện rất thật, rất đời của Tư đã chinh phục từ những độc giả bình thường đến các nhà phê bình khó tính.
Một truyện vừa, bìa sách không có hình ảnh HOT đã trở thành best-seller, cái tên Nguyễn Ngọc Tư trở thành đề tài bàn cãi trên khắp các văn đàn. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi những nhà làm phim nhạy bén thị trường nhanh chân mua ngay bản quyền tác phẩm từ khi nó đang rầm rộ; và cũng không ngạc nhiên khi bộ phim ngay khi trên cánh đồng trường quay đã được bàn tán chờ đợi - và tất nhiên - nóng ngay ở những suất chiếu đầu tiên.
Cánh đồng bất tận (phim) đã thành công trong việc xây dựng một câu chuyện buồn và đẹp, buồn rơi nước mắt và đẹp nao lòng với những cánh đồng bát ngát, đẹp đến xa lạ.
Cùng một dàn diễn viên cũng đẹp như tranh, cả về hình thức lẫn tiếng tăm; từ những tên tuổi quen thuộc như Dustin Trí Nguyễn, Hải Yến, Tăng Thanh Hà đến những gương mặt mới như Ninh Dương Lan Ngọc, Thanh Hòa đều là những khuôn mặt tuyệt vời cho điện ảnh.
Lấy tiêu đề 'không đứng về phe nước mắt', một bộ phận độc giả của Cánh đồng bất tận truyện), nhà văn, nhà phê bình... đứng giữa hai 'cánh đồng' của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình để bình luận câu chuyện.
Nhà văn Hồ Trung Tú đưa ra nhận xét của hai nhà văn khác là Nguyễn Quang Sáng "Chuyện có, văn có, cảnh có, nhân vật rất đậm nét, chỉ còn có hình có nhạc nữa là xong bộ phim" và Nguyễn Quang Lập "Đọc xong cánh đồng bất tận, mình thấy ngôn ngữ điện ảnh đầy ắp. Chưa thấy tác phẩm nào mà người Nam bộ lại đẹp một cách đau đớn đến thế" làm mệnh đề để phân tích câu chuyện đủ các 'tầng cảm xúc' của Nguyễn Ngọc Tư.
Hồ Trung Tú nhận xét "với một câu chuyện văn học như vậy thì chuyển thể sang kịch nói, cải lương, hát chèo gì đi nữa thì cũng lấy nước mắt khán giả một cách dễ dàng" rồi kết lại "Biết đòi hỏi là vô lý khi các tác giả đã không thể chạm tới được những tầng sâu ấy của tác phẩm nhưng chúng ta vẫn có quyền tiếc. Đơn giản là vì chúng ta đã bị đánh cắp mất đề tài, mất cơ hội để xem một tác phẩm điện ảnh có quyền để hay với thế giới".
Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn thì dùng hình ảnh 'photoshop' để chỉ cách đạo diễn đã 'trang điểm' cả nội dung câu chuyện và những hình ảnh 'đẹp đến xa lạ' trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Phan Quang Bình, nhấn vào một số tình tiết được thay đổi trong câu chuyện và đặc biệt cái kết của phim.
Còn nhớ thời điểm cách đây vài năm, sau khi cuốn truyện được công bố một thời gian, các cơ quan chức năng Cà Mau đã 'góp phần' làm Cánh đồng bất tận nổi tiếng hơn với việc đòi kiểm điểm, phê bình nhà văn Nguyễn Ngọc Tư vì đã "nói cái xấu nhiều quá! Và cũng cô đọng quá! Những nhân vật ông già, con cháu, gái làm đĩ..., kể cả cán bộ xã đều là nhân vật xấu" như lời một vị lãnh đạo Cà Mau trả lời về lý do kiểm điểm nhà văn.
Sự việc ầm ĩ cũng qua, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng bình an vô sự, nhưng cũng đủ để lại một bài học kinh nghiệm.
Trong truyện, hai vị kiểm dịch (cán bộ xã) đến, mang đi vài con vịt, mang đi hy vọng cuối cùng của Sương về một mái ấm gia đình, mang đi niềm an ủi gần như duy nhất của chị em Nương - Điền; và đổ thêm đắng cay lên tâm hồn vốn đã ngập tràn tổn thương uất hận và khinh bỉ phụ nữ của ông Võ.
Bài học 'nói xấu cán bộ' từ Nguyễn Ngọc Tư hẳn được Nguyễn Phan Quang Bình thấm thía và linh hoạt chuyển đổi. Hai 'cường hào' được thay bằng mấy gã lưu manh giả danh. Cán bộ vô can trong việc chà đạp lên một gia đình vốn đã tận cùng khốn khổ.
Đặc biệt, cái kết phim gây tranh cãi hơn cả. Nguyễn Ngọc Tư chọn kết ở trường đoạn Nương - cô con gái bị cưỡng hiếp, lúc đó cô nhớ về mẹ trong nỗi đau phụ nữ ê chề, cô gọi Điền trong lúc cùng cực thay vì gọi cha, bởi vì thực tế người cha ấy như đã chết; tiếng gọi làm ông Võ đau đớn bừng tỉnh.
Cái kết dữ dội của Ngọc Tư thốc vào tim người đọc, làm nó rung lên đau đớn và dư âm của nó cứ vang mãi.
Cánh đồng của Nguyễn Phan Quang Bình khi Điền và Sương bỏ đi thay đổi nhanh chóng và có cái kết bất ngờ. Bỗng chốc, ông Võ thay tâm đổi tính đưa cho con gái chiếc nhẫn cưới ông mua cho vợ "để sau này con lấy chồng", rồi cô con nói một câu bông phèng "giá như 7 năm trước cha như bây giờ".
Bi kịch 7 năm trước đâu phải ông Võ gây ra, và nói câu đó để làm gì? Phải chăng chỉ là câu dẫn đến cái kết đẹp đến khó tin.
Ông Võ, khi ở tận cùng tổn thương vì bị phản bội, đã đốt nhà đi biệt xứ, trốn chạy ký ức lại mang theo lá thư và nhẫn cưới của người vợ, hai thứ đáng phải trốn chạy nhất.
Giống như vùng đất bị sa mạc hóa bỗng chốc có phép tiên để trở nên tươi tốt màu mỡ, đỉnh điểm bi kịch khi con gái bị cưỡng hiếp, tài sản cuối cùng bị tước đoạt bỗng chốc lại biến ông Võ thành một lái đò hiền lành đưa trẻ đi học. Cô con gái Nương với bụng chửa với lời tự sự "con sẽ thành đứa trẻ ngoan vì có mẹ dạy dỗ" biến sự dữ dội của Nguyễn Ngọc Tư thành câu chuyện đèm đẹp tròn trĩnh như hòn bi
Gọt chân cho vừa giày?
"Trong một tác phẩm có tốt có xấu cho tròn trịa", phát biểu của vị lãnh đạo Cà Mau không những được nghệ sĩ 'lĩnh hội' trong Cánh đồng bất tận, mà có lẽ còn trở thành 'kim chỉ nam' cho các văn nghệ sĩ trong công tác sáng tạo.
Tiêu chí 'giáo dục' 'định hướng thẩm mỹ' cho người xem được các nhà quản lý văn hóa quán triệt tuyệt đối, đúng như tinh thần đồng chí lãnh đạo Cà Mau nói trên. Hình như 'đẹp tròn trịa' mới lăn được qua cửa kiểm duyệt, chứ 'xấu góc cạnh' e thời gian chờ đợi sẽ là bất tận, hoặc im lặng bất tận (phim Thủ tướng của hãng Giải Phóng là một ví dụ).
Đặt một giả thiết, nếu Cánh đồng bất tận (phim) không tự vo mình tròn trịa liệu có phải đối mặt với một trận bão táp 'kiểm điểm tư tưởng' như Cánh đồng bất tận (truyện) hay không?
Ở ta nghệ thuật - đặc biệt điện ảnh - từ lâu đã được đeo thêm những trách nhiệm nặng nề, gánh vác cả phần giáo dục và chính trị xã hội. "Mỗi nghệ sĩ là một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng".
Như một đạo diễn nói vui "Việt Nam tuy không sản xuất phim thiếu nhi, nhưng phim nào cũng có thể chiếu ngày 1 - 6".
Trở lại Cánh đồng bất tận, nỗi niềm của các nhà phê bình, sự tiếc nuối của họ không phải không có lý, nhưng âu cũng có lý do của nó.
Nhưng văn học nghệ thuật vốn là hư cấu, giá như những người cầm cân nảy mực đừng quá nhạy cảm, đừng lăm lăm những cái mũ sẵn sàng chụp xuống đầu nghệ sĩ, rất có thể đạo diễn đã chọn cho phim một cái kết khác, những nhà sản xuất cũng vững tâm hơn với những sáng tạo mạnh mẽ độc lập, thay vì vừa làm vừa canh chừng 'bác nghĩ sao em nghe thế", rào rậu những sáng tạo của mình ngay từ ý tưởng.
Thay vì lèo lái vo lại thành cái kết an toàn, đèm đẹp đúng 'tiêu chuẩn', rất có thể Nguyễn Phan Quang Bình đã chọn cho phim của anh một đột phá mạnh mẽ và ấn tượng hơn chăng.
Lại nhớ chuyện cô Cám vì quyết lấy được vương tử mà phải gọt chân để đi vừa chiếc giày. Các nhà làm phim cũng phải 'photoshop' để được ra rạp. Không thể khác. Trong cánh đồng sáng tạo bất tận, họ là những kẻ 'gọt chân' bất lực.
Hoàng Hường
Nhìn lại 'bài học' của Nguyễn Ngọc Tư
Tác phẩm Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ) của Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc. Nhưng mới đây, cơ quan chức năng tỉnh Cà Mau đã yêu cầu kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc Tư về những nội dung trong tác phẩm này.
Sáng 7-4, ông Dương Việt Thắng và ông Trần Văn Hiện - trưởng và phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau - đã có buổi trao đổi với Tuổi Trẻ.
* Dư luận cho rằng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (NNT) - tác giả truyện ngắn Cánh đồng bất tận (CĐBT) - vừa bị Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau đề nghị Hội Văn học nghệ thuật tỉnh kiểm điểm “phê phán tác giả một cách nghiêm khắc”. Điều này có không, thưa ông?
- Ông Dương Việt Thắng: Đúng là chúng tôi có buổi làm việc với lãnh đạo Hội VHNT, sau khi xem xét những vấn đề dư luận phản ánh, chúng tôi đã đề nghị có ý kiến về các mặt tích cực, hạn chế và đề nghị Hội VHNT kiểm điểm tác giả.
* Nhưng từ tháng 9-2005 đã có nhiều báo, tạp chí trung ương địa phương đăng tải, bình phẩm truyện CĐBT. Vậy tại sao mãi đến 27-3-2006 Ban Tuyên giáo tỉnh mới có thông báo kiểm điểm NNT, thưa ông?
- Thì ngay lúc đầu tôi có đọc cũng chưa thấy ai nói gì. Sau đó có nhiều ý kiến khen chê trái ngược nhau gọi, gửi về Ban Tuyên giáo tỉnh ủy. Ngay lúc đó chúng tôi định làm việc nhưng các đồng chí trong Hội VHNT bận việc, đồng chí chủ tịch hội bị bệnh phải phẫu thuật, phải chờ. Nhà văn NNT nằm trong biên chế của hội nên phải gặp thủ trưởng của nhà văn mới làm việc được.
Ngày 24-3- 2006 chúng tôi đã làm việc với lãnh đạo Hội VHNT gồm các đồng chí Mười Thanh (chủ tịch hội) và hai phó chủ tịch hội Lê Đình Trường, Hoàng Thêm. Đã nhận xét những ý kiến khen chê.
* Ý kiến đó thế nào, nhiều không, thưa ông?
- Sau khi CĐBT ra mắt độc giả, có rất nhiều ý kiến. Khen thì nhiều - ông Thắng cười xòa nói - nhất là khi báo Tuổi Trẻ và cả Đài truyền hình VTV giới thiệu, đăng tải. Nhưng cũng không ít ý kiến chê rất dữ.
Có độc giả Việt kiều và cả các nhà nghiên cứu phê bình văn học cho rằng đây là thứ văn chương phản động, thậm chí là chống cộng; tục tĩu dâm ô; chống lại chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chủ yếu là chị em phụ nữ, tại vì họ giận!
* Cụ thể giận ra sao, thưa ông?
- Vùng đất tác phẩm thể hiện chủ yếu ở Cà Mau, huyện Đầm Dơi là nơi có nhiều địa danh lịch sử như Bàu Sen, đầm Bìm Bịp... Đó là ý kiến của nhiều người, trong đó có số cán bộ đã gửi về cho ngành văn hóa và cá nhân lãnh đạo tỉnh ủy, có cả dịch giả nghiên cứu văn hóa Nguyễn Kim Dân ở P.3, Q.Bình Thạnh, TP.HCM. Thể hiện ý kiến bằng các văn bản thư từ, có ý kiến còn đề nghị tổ chức hội thảo nữa.
* Ông đánh giá ra sao về nội dung ý kiến của độc giả?
- Qua buổi làm việc (với Hội VHNT tỉnh) đã có ý kiến thống nhất: nói truyện ngắn CĐBT là phản động và chống cộng là không phải. Chúng tôi không cho là như vậy, không thể qua một truyện ngắn, một tác giả mà đánh giá như vậy được.
Còn nói là dâm ô tục tĩu cũng không phải đâu bởi trong truyện chỉ có vài ý nhỏ thôi, không thể đánh giá được.
* Thế còn ý kiến cho rằng NNT ám chỉ về địa danh “bôi nhọ” địa phương?
- Về vấn đề địa danh, tôi nghĩ không chỉ có Cà Mau mà NNT đã nói chung cho cả vùng Tây Nam bộ.
* Cụ thể hơn, ông thấy thế nào?
- Về chủ đề tư tưởng, tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần. Tôi thấy nói cái xấu nhiều quá! Và cũng cô đọng quá! Những nhân vật ông già, con cháu, gái làm đĩ..., kể cả cán bộ xã đều là nhân vật xấu. Quan điểm chúng tôi không phải không cho nói cái xấu, nói không biện chứng.
Tốt xấu bao giờ cũng có cả hai, tỉ lệ phải như thế nào đó. Nói xấu trong tác phẩm này có nhiều tình tiết đã nói quá hiện thực. Không đúng!
* Ông có thể nêu ra vài điển hình?
- Ví dụ như miêu tả gái điếm mà NNT dùng từ “dập dìu trên bờ đê” thì làm gì có. Hay như đoạn viết có nội dung: sau đợt dập dịch cúm gia cầm xong thì một phụ nữ đã buồn tiếc của mà uống thuốc tự vận.
Thực tế trong cả nước đến nay vẫn chưa có người tự vận như vậy mà chỉ có thể buồn chán thôi. Người nuôi có gia cầm bị tiêu hủy đều được bồi thường tiền. Hoặc như chi tiết: ông già chơi đĩ xong đã trả tiền cho đĩ ngay trước mặt con là không có.
Từ những chi tiết như thế, chúng tôi cho rằng tác phẩm này không có tác dụng giáo dục xã hội, giáo dục con người. Tôi không viết văn nhưng tôi biết chức năng của văn học là chức năng giáo dục và định hướng.
Mặc dù mặt trái của kinh tế thị trường có cái xấu, cái xuống cấp nhưng đa số vẫn tốt. Nói vậy để con người còn niềm tin, lạc quan hơn với cuộc sống.
* Ông đánh giá mức độ phản ứng giữa CĐBT lần này so với Cù lao Tràm của những năm đầu đổi mới thế nào, thưa ông?
- Cù lao Tràm cũng có nói tốt dù thời kỳ mới đổi mới nói về mặt trái hơi nhiều! Sau này lại có Cái đêm hôm ấy đêm gì của một tác giả ở Thanh Hóa cũng bị phản ứng! Ý tôi muốn nói trong một tác phẩm có tốt có xấu cho tròn trịa vậy thôi, không thì thiếu tính giáo dục.
Người đọc sẽ thấy bi quan. Tiến sĩ Thái Văn Long - giám đốc Sở GD-ĐT tỉnh Cà Mau - có nói không nên cho học sinh coi CĐBT vì đọc xong học sinh sẽ hiểu “xã hội dập dìu đĩ”. Có cựu chiến binh tên Nguyễn Hiền Thân ở Bà Rịa - Vũng Tàu sau khi đọc xong CĐBT đã tát cô con gái của mình chỉ vì con của ông khen CĐBT hay!
* Ông nhận định sao về hai luồng ý kiến khen chê?
- Phải chờ ý kiến của các nhà phê bình văn học. Vụ trưởng Vụ VH Đỗ Kim Cuông có gặp tôi nói riêng: nhận thức tư tưởng của NNT còn non kém chứ không có chống cộng gì đâu! Chúng tôi đề nghị hội tạo điều kiện cho nhà văn nâng cao nhận thức nghiệp vụ chuyên môn. Chứ như hiện nay NNT mới học xong lớp 11 mà thôi!
* Thực tế NNT đã bị kiểm điểm chưa và kiểm điểm đến mức nào, thưa ông?
- Mục đích chính của lần mổ xẻ này là để nhà văn có dịp nhìn lại và sáng tác tốt hơn. Cũng nhẹ nhàng thôi, không có gì cay cú hay gay gắt cho dù có ý kiến còn đòi bài trừ, trục xuất nhà văn ra khỏi địa bàn.
* Trở lại với CĐBT, thưa ông Thắng, ông có nghĩ CĐBT nói cái xấu là có hại không? Văn học nghệ thuật được quyền hư cấu không, thưa ông?
- Nói cái xấu để thức tỉnh là điều tốt. Nhưng nói gì thì nói cũng phải có tính định hướng. Anh hình dung xem, trẻ mới lớn lên mà đọc CĐBT sẽ thấy cái này sao mà quá trời vậy! Trẻ sẽ hoài nghi quá đi chứ.
Đúng là sáng tác văn học nghệ thuật được quyền hư cấu nhưng phải trên cơ sở sự thật. Nói quá thành bác Ba Phi rồi! Nói quá mà nói về cái tốt, nhân cách hóa sẽ có tính xây dựng. Theo tôi, hư cấu như thế tốt.
* Vậy ông có thể cho biết có bao nhiêu phần trăm sự thật trong CĐBT? Ông đánh giá sao về nhà văn này!
- Tôi đánh giá cao phong cách ngôn ngữ thể hiện - đặc điểm đặc sản miền Nam - của NNT. Tôi không thể cân đo giá trị một tác phẩm văn học như làm kinh tế được.
* Xin cảm ơn ông!
TRẦN ĐỨC thực hiện
Đề nghị:
- Hội Văn học nghệ thuật kiểm điểm phê phán tác giả một cách nghiêm khắc, rút kinh nghiệm khi viết, cần phải có thực tiễn cuộc sống, cái đẹp, cái tốt mà xã hội đang xây dựng và phát triển. Tất nhiên, cần phê phán cái chưa tốt, nhưng phải đúng hiện thực và có định hướng cho con người đến cái chân - thiện - mỹ.
- Hội Văn học nghệ thuật nên thường xuyên có định hướng cho người viết, sáng tác nên những tác phẩm hay, có phê phán nhưng phải thận trọng tránh gây nên một phản ứng xã hội gay gắt đối với tác phẩm.
- Thường xuyên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tất cả hội viên ở các lĩnh vực (có Nguyễn Ngọc Tư) được tham gia học tập lý luận chính trị, trau dồi đạo đức phẩm chất, nâng cao ý thức trách nhiệm của người cầm bút, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Riêng nội dung trả lời phỏng vấn với một số báo thiếu trách nhiệm, đề nghị Đảng, Đoàn nơi Nguyễn Ngọc Tư sinh hoạt giáo dục và kiểm điểm.
(Trích báo cáo ngày 27-3-2006 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau)
Bài đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 8-4-2006

Không gian… của Nguyễn Ngọc Tư

Nguyên Ngọc
Tôi vừa xuống Cà Mau. Và tất nhiên bây giờ Cà Mau… tức là Nguyễn Ngọc Tư. Thậm chí - tôi xin lỗi hết cả bà con Cà Mau, và xin lỗi cả Tư nữa - quả thật không biết nếu như không có Nguyễn Ngọc Tư thì Cà Mau có còn hoàn toàn là Cà Mau bây giờ không. Tất nhiên vẫn là Cà Mau, nhưng sẽ là một Cà Mau có thể nhỏ hơn một chút, thiếu hơn một chút, thiếu cụ thể điều gì thì cũng thật khó nói, nhưng rõ ràng là sẽ thiếu, thiếu một điều gì đó đang làm cho không gian Cà Mau không rộng và sâu, xa, gần và hiện đại được như bây giờ khi có cô nhà văn ấy.

Tôi gặp Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau lần đầu là cách đây đâu khoảng mươi năm (vừa rồi cô ấy xác nhận lại trí nhớ của tôi, cô bảo cô xin về làm ở hội Văn nghệ Cà Mau đến nay vừa đúng mười năm). Bữa đó ngồi với anh chủ tịch hội (anh ấy bây giờ vẫn là chủ tịch hội), tôi nói linh tinh những chuyện gì đó không thể nào nhớ được nữa. Thỉnh thoảng lại thấy có một “con nhỏ” chạy vô chạy ra rót nước, đôi lúc dừng lại một chút chừng lắng nghe chúng tôi. Và hình như hơi cười. Bây giờ nghĩ lại lo quá, không biết bữa đó mình có bốc đồng nói linh tinh những gì to tát hùng hồn về văn chương không. Bởi vì “con nhỏ rót nước” đó chẳng bao lâu sau sẽ là… Nguyễn Ngọc Tư.
Thật tình khi Tư bắt đầu được dư luận chú ý tôi cũng không nhớ rõ “con nhỏ rót nước” bữa đó lắm, chỉ loáng thoáng hình ảnh một cô gái trẻ rất quê, mặt mày cũng không lấy gì làm sáng sủa, hình như là mặc chiếc áo xanh, suốt buổi chỉ chạy lên chạy xuống châm nước, sau đó chạy đi đâu đấy hơi lâu, chắc là ra ngoài phố đặt tiệc cho anh chủ tịch hội tiếp khách thủ đô về… Những lần gặp Tư sau này, lúc ở Hội An, lúc Sài Gòn hay Hà Nội, cũng chỉ chào qua năm ba câu, ở những cuộc hội họp long trọng ồn ào ấy Tư rất ít nói, ít xuất hiện, thường lủi thủi một góc vắng, ngồi sau một cây cột to chẳng hạn, vẫn rất quê, và không như nhiều người viết trẻ thường thích làm quen đôi khi đến sấn sổ với những ông già đã nổi tiếng. Tôi để ý chưa bao giờ Tư tỏ ra muốn bắt quen với tôi, gặp nhau tôi hỏi câu gì thì cô trả lời câu ấy, rất ngắn, đại khái cũng chỉ những chuyện bâng quơ về sức khoẻ, đang viết gì, có hay ra ngoài này (Hà Nội) không, trong ấy (Cà Mau) bây giờ thế nào, anh A hay chị B có còn ở vị trí nào đó không… Vậy mà, tôi biết, hình như chúng tôi có hiểu nhau, rằng cái sự ồn ào, hào nhoáng kia chẳng có nghĩa lý gì, cả cái hội hè kia nữa, cũng là để mà chơi đấy thôi, văn chương là một cái gì đó rất khác, vừa bình thường vừa bí ẩn, riêng tư và… cô độc, cô đơn hơn rất nhiều… Rồi đến cái vụ Cánh đồng… Tôi đã có lần nói rồi, và lần này xin nói lại, và trước khi nói tất nhiên phải xin lỗi tất cả những người cầm bút: Để mà tính chuyện đi ra thế giới, tức là cái mà người ta gọi là mở rộng không gian văn học, và như thế cũng tức là không gian đất nước, ra với thế giới, với bàng dân thiên hạ, tức là cái sự bây giờ được gọi một cách nghiêm trang và hơi lo sợ là “hội nhập”, mà không phải sợ bất cứ ai hết, thì theo tôi trong văn học hiện đại ta có thể có mấy cái: Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một, một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là hai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là ba, và nay là Cánh đồng bất tận. Tôi nói thế này mà không sợ quá đáng đâu: Với Cánh đồng bất tận, văn chương ta bước vào toàn cầu hoá hôm nay một cách đàng hoàng, cùng và ngang bằng với những giá trị nghệ thuật và nhân văn của toàn cầu, chẳng phải nể ai hết. Nó đưa văn chương, và như thế cũng là con người của ta, ra toàn cầu, để cho toàn cầu biết rằng ta cũng là con người chẳng hề thua gì họ.
Chuyện Cánh đồng… bị đánh tơi bời như thế nào, ai cũng biết rồi. Tôi thậm chí còn biết không chỉ ở cấp tỉnh lẻ và trong những người làm công việc gọi là văn hoá tư tưởng, mà cả một số người làm văn chương hẳn hoi nữa kia. Và tôi còn biết, rất cụ thể, một vị chức sắc cao vòi vọi, từng không hề tiếc lời chửi bới nó cực kỳ thậm tệ. Cũng chẳng có gì lạ. Một số người, kể cả người cầm bút nữa, không hiểu gì văn chương cũng là chuyện thường. Và cũng không ai bắt một vị có chức quyền loại lớn phải hiểu thấu văn học. Có lẽ điều đáng nói, đáng kể hơn nhiều lại là ở ngay một số người… bênh vực Cánh đồng... Họ hăng hái, nhiệt tình, sôi nổi, cả hùng hổ nữa bênh vực Cánh đồng... bằng cách ra sức la to lên rằng ai kia mắng mỏ con nhỏ thì cứ chịu khó xắn quần cởi dép về đây mà coi, “cánh đồng” ở cái xứ này còn tệ gấp trăm lần “cánh đồng” của Tư… Nghĩa là rất buồn, và tôi biết Tư cũng buồn lắm về điều này. Họ yêu Tư, quý Tư, nhưng cũng chỉ đến mức hiểu Tư là một nhà văn rất hiện thực của Cà Mau, của miền Tây, là một cây bút dũng cảm dám nói lên những sự thực tăm tối và đau lòng đang còn tràn lan trên vùng đất đẹp và đáng yêu biết bao này. Họ phẫn nộ vì những kẻ “đánh” một cây bút to gan dám nói lên tất cả sự thật. Tư buồn không phải vì những người đánh cô đến té tát. Cô buồn vì những người yêu cô mà chẳng phải vì những điều cô đau đáu muốn nói về cuộc đời. Nguyễn Ngọc Tư nào có muốn nói về một Cà Mau, một miền đất. Chẳng qua cô gửi vào cái khung cảnh ấy, trên đất đai ấy, mà cô quen cô thuộc hơn bất cứ nơi nào trên thế gian này, một kiếp người, những kiếp người, hạnh phúc nhọc nhằn và đau khổ muôn đời của con người, cái chất thiên thần và quỷ sứ trộn lẫn bất trị, không gì không bao giờ chữa nổi trong con người. Và cô làm ra cái sản phẩm đã đưa văn học ta ra khỏi tình thế cám cảnh tỉnh lẻ của cái thời kéo dài “văn học phục vụ”, “văn học đi thực tế”, “văn học bám sát đời sống thực tế”, văn học “mũi nhọn mũi tà”… Nó đưa văn học trở lại là văn học, thế thôi, chẳng của gì hết. Và vì vậy, nó khiến văn học ta, cả chúng ta nói chung nữa, cũng “toàn cầu hoá” như ai. Nó tạo không gian mới cho chúng ta hít thở kiểu mới cùng thiên hạ…
Tôi xuống Cà Mau và được Nguyễn Ngọc Tư dẫn đi chơi, xuống Mũi (để xem một cái mũi đất Cà Mau đang bị bê tông hoá!), vào rừng U Minh để được lội giữa những rừng tràm tuy đã xơ xác nhiều so với những lần tôi đến trước đây nhưng thiên nhiên vẫn mạnh lắm, con người tàn bạo thế vẫn chưa tàn phá nổi hết rừng, chưa xoá đi hết được cái hoang dã mãi mãi lạ lùng của U Minh… Đi chơi với Tư ở Cà Mau rất thú, rất khác những lần gặp cô trong các cuộc hội họp văn chương. Bây giờ là một Nguyễn Ngọc Tư rất Tư, hình như có gầy hơn đôi chút so với những lần gặp trước, trông lanh lợi và sành sõi hẳn ra, sẵn sàng hiện đại nữa, hơi “ngầu” một chút, đôi lúc cũng ồn ào rồi chợt lắng đi, rất lặng, rất riêng, thậm chí có gì đó như chừng hơi khinh khỉnh... Tôi hiểu, người viết văn nào cũng vậy, cô gái tài năng này càng vậy, tinh ý một chút có thể cảm thấy cô vẫn giữ một khoảng cách với tất cả những gì đang diễn ra quanh mình, cái khoảng cách có lẽ chỉ những người sáng tác mới biết và hiểu được, vừa nhập cuộc đến cùng, vừa vẫn tách ra cô đơn, sự cô đơn không có nó thì không bao giờ thật sự có sáng tạo nghệ thuật. Cô đơn và lúng túng mãi giữa cuộc đời. Ở gần Tư và trong không khí này, hình như “ngửi” ra được cái mùi rất người và rất đời đó, nó làm cho cô ấy quả thật sự là một nhà văn, một nhà văn đã làm cho văn học ta ngang hàng với bất cứ ai, bởi vì, vậy đó, hình như nhà văn là người được sinh ra để mãi mãi nói lên cái lúng túng mãi mãi không sao thoát nổi của kiếp người. Ông già kỳ cục và cô con gái cũng kỳ cục không kém của ông trong Cánh đồng bất tận đấy, chẳng phải là họ quá lúng túng cái lúng túng của kiếp người, rất người đó sao?
… Ngồi trên vỏ lãi chèo vào rừng U Minh, Tư nhẹ nhàng báo tin cho tôi biết chỉ mấy ngày nữa cô sẽ chính thức thôi việc ở hội Văn nghệ tỉnh, mọi thứ đã xong, chỉ còn thủ tục ra đi. Vẫn sống ở Cà Mau nhưng làm một việc gì đó khác ở Sài Gòn. Im lặng một lát rồi cô nói tiếp, có lẽ cô sẽ dừng viết tạp văn một thời gian. Cũng như một cái hũ rượu ấy mà, cô bảo, ngày nào mình cũng giở nắp ra, miết rồi nó bay hơi hết, cho đến khi nhạt thách. Cô muốn chôn sâu nó một thời gian, có lẽ sẽ là dài, để cho nó sánh đặc lại. Ôi cái con nhỏ rót nước cho anh chủ tịch trang trọng tiếp khách ngày nào, hoá ra đấy mới là người biết nén không gian lại cho đến đặc sánh, để cho nó thật sâu và rộng ra, có sâu và rộng như vậy thì rồi ta mới có được cái không gian gọi là “toàn cầu” cùng thiên hạ. Cái không gian mà ta vẫn tưởng chỉ có thể tạo nên được bằng kinh tế, hay chính trị, hay gì gì đó...
Tôi về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư, và tôi yên tâm rằng ta có thể “toàn cầu hoá” cùng thiên hạ, có thể có được không gian ao ước với đầy triển vọng và thách thức ấy, chẳng lo gì. Khi văn học, cũng là văn hoá, đã đi được một bước như vậy...
Những ngày cuối cùng của năm 2007
Nguồn: Sài Gòn Tiếp Thị, 1-2-2008