Bài của cố nhà
thơ Phùng Quán năm 1992
Ông Nguyễn Hữu Đang (1913-2007)
từng bị thực dân Pháp bắt từ 1930, tham gia Mặt Trận Dân chủ Đông Dương
(1937-1939), Hội truyền bá Quốc ngữ (1938-1945), phong trào Văn Hóa Cứu Quốc
(1943-1946), Ủy Ban Giải phóng Dân Tộc tại Tân Trào 1945. Ông là người tổ chức
ngày lễ 2-9-1945, xây dựng khán đài để Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc
lập tại vườn hoa Ba Đình Hà Nội.
Trích đoạn bài của Phùng Quán (1932-1995):
Tôi là người viết văn nhưng lại đặc biệt say mê nghệ thuật kiến
trúc...[Ở nhà tôi, ngoài hình ảnh những] Kim tự tháp, Vạn lý trường thành, Đền
Ăngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung, Tháp Eiffel, Khải hoàn môn... tôi có chừng
vài chục tấm hình cắt ra từ các báo như Nhân Dân, Quân Đội, Lao Động, Hà Nội
Mới... chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng thể Vườn hoa Ba Đình trong ngày Mồng
hai tháng năm Một nghìn chín trăm bốn lăm.
Mỗi lần ngắm nhìn cái công trình kiến trúc mỏng manh được xây
dựng bằng gỗ, ván, đinh, vải; được thiết kế và thi công trong vòng 48 giờ đồng
hồ – nếu chậm lại một giờ là hỏng – rồi sau đó biến mất khỏi mặt đất như một
lâu đài trong cổ tích, cặp mắt mờ đục của người lính già tôi bao giờ cũng cay
lệ...
Ai có thể tái tạo công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập cùng với
tổng thể kỳ vĩ đó? Không một ai! Kể cả thánh thần... Theo ngu ý của tôi, lễ đài
Độc lập là cái cột mốc giữa đêm dài một trăm năm nô lệ và bình minh của Độc lập
Tự do của cả dân tộc. Kể từ khi trên mặt cỏ nắng Ba Đình mọc lên cái cột mốc gỗ
này, số phận của cả dân tộc thay đổi, và số phần nhỏ bé, hèn mọn của cả thằng
tôi cũng thay đổi...
Vậy ai là tác giả cụ thể công trình kiến trúc Lễ đài Độc
lập?...Cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặng tôi những tư liệu có liên
quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9/1945 anh vừa tìm thấy trong Thư viện
Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam, và kho Lưu trữ Quốc gia. Trong số những bản sao chụp, có mấy tư liệu tôi
đặc biệt chú ý:
“Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu đề VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đề
ngày 31.8.1945 gửi Thị trưởng Hà Nội, về việc tổ chức Ngày Độc lập (Đây là bản
chính được đánh máy bằng giấy than đen trên giấy trắng, khổ rộng 130 mm x 210
mm, đóng dấu tròn với giòng chữ Ngày Độc lập và C.P.C.H D.C. vòng quanh con
dấu, một ngôi sao năm cánh ở giữa, nổi lên giòng chữ BAN TỔ CHỨC).
Nội dung thư:
Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,
Bộ tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2.9.1945
một “Ngày Độc lập”.
Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban tổ chức
chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ phải cho mở cửa,
quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc lập. Kính
thư,
Nguyễn Hữu Đang”.
Một thư khác của Ban Tổ chức “Ngày Độc lập” thuộc Bộ Thông tin
và Tuyên truyền, đề ngày 31.8.1945. Hình thức và con dấu giống như trên. Nội
dung thư:
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội
Nhân “Ngày Độc lập”, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn
hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận. Còn về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ
Ngài cho sửa soạn cho chúng tôi một chiếc cột cao 12 thước tây đủ cả giây và
bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu toà Thị chính.
Kính thư, Nguyễn Hữu Đang”.
Một bức thư khác, hình thức, tiêu đề và con dấu giống hai bức
thư trên, với nội dung:
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội
Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào ngày 2.9.1945 tới đây được
hoàn hảo, chúng tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho các Phố trưởng để các ông
ấy báo tin cho các nhà trong khu vực mình biết rằng Cụ nào trong nam giới hay
nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ở Hội quán hội Khai trí hồi 13 giờ trước
khi đi lên vườn hoa sau Sở tài chính.
Kính thư, Nguyễn Hữu Đang”.
Sau khi đọc kỹ những tư liệu trên, tôi suy luận: ông Nguyễn Hữu
Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập, vậy chắc ông phải biết ai là tác giả
của công trình kiến trúc Lễ đài. Cần phải tìm gặp ông để hỏi cho ra.
Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước,
nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi
bối rối, sướng mê người, đầu không khiến mà chân cứ rụt về đúng thành tư thế
đứng nghiêm, như ngày còn làm lính trinh sát mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn hỏi
chuyện.
Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn
Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi
tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường
Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của
Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong
những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng
và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của Đất
nước: 2-9-1945.
Gặp điều trắc trở?
Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về
tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên Hà Nội trên
chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một
cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên
hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em thế?”. Anh cười: “ Mình sống
ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại có cả
thóc và rơm cho nông dân vay”. “– Hiện nay anh đang làm gì ở dưới đó? ”. “–
Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng cộng sản Liên xô qua
bản tiếng Pháp. Đối chiếu, thấy bản dịch đã in sai nhiều quá” .
Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà Nội nữa. Mấy anh em
quen cũ chúng tôi lo lắng hỏi nhau: “ Không biết anh Đang có gặp phải chuyện gì
trắc trở dưới đó?”.
Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể muốn tìm hiểu
về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phải về quê thăm anh, mặc
dầu đã gần giáp tết. Tôi nói khó với vợ: “ Em bớt cho anh một phần lương hưu
tháng này, lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang...”. “–
Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi có được không?”.
“– Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi đến ra giêng e chậm
mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mì nh...” . “– Anh
có biết địa chỉ của anh Đang không?”.
“– Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không
biết”. “– Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có
địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”.
“– Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng
về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”. Vợ tôi đành trao cho tôi một nửa số
tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhịn nhẫn của người vợ phải
trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào việc không đâu! Tôi nhét
vội mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ
thay đổi ý kiến.
Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... sáng 26 tết, tôi có mặt ở thị xã
Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở văn hoá và Hội văn
nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị
em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai.
Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ. “Hình như ông ta ở Quỳnh
Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó... ”. Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen được
với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “– Cháu sẽ
đưa chú ra cái quán thịt chó nổi tiếng, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu,
[chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc] số tiền còm cõi trong túi,
gọi một đĩa thịt luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có
một người đã đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ đứng
bật dậy, nói khẽ với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc ông biết”.
Tôi vội níu tay anh lại dặn nhỏ: “– Cậu nhớ đừng giới thiệu mình
là ai, sẽ rách việc”. “– Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”. Anh bạn trẻ
đi đến gặp ông ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh
tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi:
“Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ được bao nhiêu tuổi ạ? ”. Tôi
đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo quần bà ba nâu, chân dép lốp –
râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên: “– Cảm ơn đồng chí – tôi
cười – cũng thất thập cổ lai hi rồi đồng chí ạ”.
“– Trước cụ có làm công tác ở đâu không ạ?”. “– Tôi làm thường
trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà Nội... về hưu đã gần được chục năm
rồi”.
“– Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “– Tôi có quen
biết gì với ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi
có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm
đứa cháu họ công tác gíáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc gửi
biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh
quanh mãi không ai biết...”
Anh cán bộ cười: “ Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở
thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần hai chục cây số.
Ngược gió này mà cụ đạp xe về tới đó cũng vất vả đấy...”. Thấy tôi chăm chú
lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “– Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang
ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng,
làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên
giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy
vậy [cách đây mấy năm, ông Đang này tự tiện đi] sang Nam Định không có giấy đi
đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền
phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao
hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về... ”.
Tôi tỏ ý sợ hãi, gãi đầu gãi tai: “Chà... biết rắc rối thế này
thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả lại thôi...”. Anh cán bộ xuê
xoa:
“ Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư
duy. Nghe đâu ở trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ
muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón
tay vào ly rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã
về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh...
Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt
như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về
sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con
đường như cũng bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp I, II xã Vũ
Công – nơi anh Đang tá túc – tôi vào cái quán bên đường uống li rượu cho ấm
bụng.
Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà Nội về tìm thăm anh Đang, rót
rượu tràn li và nói: “– Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào
uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm,
ông ấy đèo sau xe cái giỏ tre ràng buộc rấ t kỹ. Ông ấy kể với tôi, tối qua bắt
được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè, bò vào nhà. Định làm thịt ăn nhưng tiếc,
chở lên huyện bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ
lá...”.
Tôi bật phì cười: “Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc,
mà mất công đạp xe mini những mười cây số để đổỉ lấy mấy lạng mỡ lá... Vui
thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ,
mới nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt lại hiện ra trong trí nhớ tôi: Cuộc
đời vui quá không buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm li rượu nữa, giọng hào
hiệp: “– Li này tôi đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy
đạp xe về phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ
tam xà!”. Tôi cười ngất.
Tiếng lục lạc làm đỡ cô đơn
Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên,
trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi:
“– Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà
chăm chú thế không biết... ”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra gần sát
sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành
chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó,
khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân
ôm vòng hai dây cao su đen nom như hai vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống
quần vào đó chống rét, lưng anh khòng xuống hình chữ C viết nghiêng... Tôi chợt
nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể.
Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn HữuĐang là cán bộ Đảng được cử ra
hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như một công tử loại một của Hà thành,
thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện,
tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu
Đang có thể đến bất cứ một nhà tư sản Hà Nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà
những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì vì
họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh, là trao tận tay cho Cách mạng...
Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ không con,
không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên
gạch vỡ – chẳng hiểu để làm gì – như người bõ già trong truyện Hương cuội của
Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp Tất
niên...
Miên man nghĩ vậy và tôi bật phì cười... “ Anh Đang!”, tôi nghẹn
ngào gọi. Anh quay lại, chớp chóp mắt, răng vàng xỉn, cùn mòn gần nửa vì năm
tháng... “ Phùng Quán! Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm
chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...
Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng 5 mét vuông,
chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái,
treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng nát, quần
lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu
cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Động vào
chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai.
Sau đó tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại
trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh thiếu niên đi xe
đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng
kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu – trâu gõ mõ, chó
leo thang – anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ
tránh xe. Tác dụng thứ hai, quan trọng không kém...Mỗi lần đạp xe trên đường
vắng, nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ đơn
độc.
Chính giữa gian chái kê cái chiếc tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt
ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như khoá cửa nhà kho. Trên
nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà Nội người ta thường quẳng
vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thống
cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng, và một
xấp áo quần cũ làm gối... Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai
chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Mặt bàn
lát bằng nan tre.
Anh nói, giọng Lão Trang:
“Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn lại hai
chân, nó thành một con người”. Trên mặt bàn xếp kín những chai lọ, vỏ đồ hộp,
hai [...mất nửa dòng... ] vài con dao làm bằng mẩu [... mất một dòng...] thuyết
minh viên giới thiệu hiện vật trong các bảo tàng nghệ thuật: “Nó là loại gạch
nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và độ bền của nó
làm các loại chuột, mối, dán phải vị nể”.
Bây giờ thì tôi đã hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì.
Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng
bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh
còng queo, mẩu dây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lượt bụi
tro. Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói.
Anh giải thích: “Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát
bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói
vẫn cứ lọt sang – anh cười – Chịu khói một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh
thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Trong
việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về
ăn...”. “ – Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa
chế biến một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi.
Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu
cho chú, rượu cam xuất khẩu hẳn hoi, quà của Hội nhà văn gửi biếu vào dịp Tết
năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa
suốt mấy ngày ở chơi”.
Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở
khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc mắt nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ
nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách... ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất
nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ bia lon, và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh
lúi húi lục tìm một lúc khá lâu mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa. “Đây
rồi! Bây giờ già hoá lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia”. Tôi cười, nói:
“Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quý tộc Nga thời Sa hoàng, tự tay tìm chọn
loại rượu quý cất giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quý”.
Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơi sưu tập
thuốc lá à? Thế mà em [... mất một dòng...] vì phải dọn nhặt đem đốt”. Anh kêu
lên: “– Thế có tiếc không! Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô ấy, có vỏ bao
thuốc lá ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu
của tôi đấy...”, “– Hàng đối lưu?” , tôi ngạc nhiên hỏi. “– Để tôi dọn cơm cho
ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về
môn kinh tế chính trị học”.
Tôi ngắm nhìn bao quát căn hộ độc thân đầy khói của anh, hỏi:
“– Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này à?”. “–
Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng
thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôỉ, nên đề nghị tôi ra đó trông coi giúp như
nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà kho cũng thoáng mát,
tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với việc trông coi trạí. Mỗi mùa
Hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số
thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai ba tạ
thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết, Hợp tác
xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà Nội biếu các chú... Khi tôi bắt tay
vào việc dịch thuật lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô, tiếng lợn kêu ầm ĩ
quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại,
chuyển về đây để được yên tĩnh hơn”.
Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy, đặt lên
miệng xô tấm gỗ dán: “– Đây là bàn ăn – anh giới thiệu, và vần tiếp ra hai cái
vại muối dưa sứt miệng – Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân nghèo mà phí phạm
thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về cọ
rửa sạch sẽ, lật đít lên làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú
ngồí thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”.
Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy
viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi.
Anh chỉ vào mỗi đĩa, giới thiệu thực đơn: [“– Đĩa này là chả cóc, đĩa này là
chả nhái. Nhờ ăn] thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ
hơn cả chú”.
Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn
mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất
đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn
cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ.
Chẳng là các cô giáo thường đổ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu,
dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý
của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật là phí phạm”. “– Nhưng cóc nhái đâu mà
anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?”, tôi hỏi. “– Ấy, chỗ này mới là bí quyết.
Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở
đây thích chơi vỏ bao thuốc lá , nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị
xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc, nhái.
Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số (0) đổi 3 con cóc hoặc 5 con
nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới gọi nó là hàng đối lưu, chú
hiểu chưa. Mỗi tháng, tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao thuốc lá là thừa chất
đạm, mà là loại đạm cao cấp. Hôm nào chú về tôi gửi bíếu cô, chú Cung (00) mỗi
nhà mấy viên nếm thử!. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác
đều nhạt hoét! ”.
Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc nhái bỏ vào bát cho tôi, ân
cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: “– Chú đi đâu mà lặn
lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi? ”. “– Em về đây chỉ một mục đích
là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà Nội, chúng em rất lo. Không
biết anh đau ốm gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh,
em rất mừng... Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh
chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì cho các thế hệ sinh sau, theo em
là một tổn thất không gì bù đắp được...”. Tôi lấy đưa anh xem một số tư liệu
liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: [“ Em suy luận
ra anh là Trưởng ] ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được.
Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỷ niệm, những hồi ức mà anh cho là
sâu sắc nhất... mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin” .
Ngày Lễ Độc lập
Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc,
nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm
chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong
lớp men sành... Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:
“Thấm thoát thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua... Tôi còn nhớ
như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8... Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc
lịch sử phải được tính từng phút một... Năm đó tôi bước vào cái tuổi băm ba.
Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt
quốc dân đồng bào... Hôm đó, tôi có việc cần giải quyết gấp, nên đến nơi thì
phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ
trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ, chụp lấy tay tôi, nói: “– Anh vào ngay đi,
Cụ Hồ đang ngồi đợi anh trong đó”.
Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp
mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ áo quần chàm, tay chóng lên ba toong.
Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “– Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu
Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ
nhìn tôi một thoáng vớí cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả
nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết
định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha rất giống giọng Cụ Phan Bội
Châu mà có lần tôi đã được nghe: “– Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt
quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ
chức buổi lễ không? ”. Tôi tính rất nhanh trong đầu : tháng 8 có 31 ngày, như
vậy là chỉ còn có 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc trong một phút. Hình
dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua... để tổ chức được
một ngày đại lễ như vậy, trong khi đó mình chỉ có hai bàn tay trắng.
Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là [quá khó, vì gấp
quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”]” Anh Đang ngẩng
phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ
hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng
ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.
“– Như chú biết đấy – giọng anh vụt trở nên sang sảng – tôi là
một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại
bị ông Cụ động viên, động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn,
giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy, lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng
khí thế, muốn lập nên được những kỳ tích, những chiến công thật vang dội... Tôi
nói với ông Cụ: “– Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy, con xin nhận nhiệm vụ. Con xin
hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”.
Cụ Hồ đứng lên bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ,
bằng lòng: “– Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia,
chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”. Tôi chào Cụ,
ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm
rộng thênh thang Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại
phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng ở đó. Cụ hỏi ngay: “– Chú còn cần gì nữa? ”. “–
Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền...”. “– Quyền
gì chú cứ nói đi!”. “– Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết
cho việc tổ chức buổi lễ, về người cũng như về của...”. “– Được, tôi trao cho
chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả
lời: theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.
Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn – anh gắp
thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa, rồi kể tiếp – Nội dung như
sau : ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt
quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có
nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng
đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo
được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với
hàng chữ tít thật lớn chạy hết trang báo [... mất một dòng...] ngoài chật kín
Hội quán.
Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp
vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận:
“– Biết bao nhiêu anh hùng, liệt nữ góp xương máu cho nền độc
lập, đâu có lấy giấy biên nhận”, họ nói vậy. Tôi mời m ọi người dự cuộc họp
chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ
đài Độc Lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại
này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra
mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt ở đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó?
Một người trạc ngoài ba mươi tuổi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính
trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ. Tôi xin tình nguyện nhận việc
dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến để ban tổ chức xem
xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “– Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng
nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh
nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc Lập là một công trình kiến trúc,
tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt được những tiêu chuẩn không thể
thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể... Nói ví dụ
nếu không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ
coi như thất bại. Bởi vậy cần có một kiến trúc sư phối hợp với anh”.
Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề từ trong đám đông bước ra, tự
giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh (2), cùng hoạt động trong Hội
văn hoá cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ
của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải rộng
cuộn giấy can cầm sẵn trong tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc
Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật
chi tiết, tỉ mỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài,
chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà
gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát...
Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi
đặt bút ký duyệt vào bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn
Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh:
"Ban tổ chức quyết định giao công trình này cho hai anh
[Các anh cần gì, chúng tôi] sẽ lo chạy đầy đủ. Hiện chúng tôi có một kho ba
ngàn thước len đỏ (000), cần dùng bao nhiêu, các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải
được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng
chín, tôi sẽ đến nghiệm thu lễ đài. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.
Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như cụ đã chỉ
thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan
tới ngày lễ, cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chú phải nhớ ngày Mồng Hai
tháng Chín sắp tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng
tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
“– Ông Đang ơi! ông Đang!” , tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài
cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra, thấy hai chú bé trạc 9, 10
tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình
nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu tươi: “– Ông có đổi rắn nước
không ạ?”. Anh Đang bỏ bát đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước,
rồi hỏi: “– Các cháu định đổi như thế nào?”. “– Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ
bao ba số”. “Các chú đừng có giở thói bắt chẹt”, giọng nói và dáng bộ của anh
đã chuyển hẳn sang giọng của dịch vụ đổi chác, “Mỗi con rắn này chỉ giá trị
bằng hai con cóc. Nhưng thôi thì ông đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba
số, các chú có đổi thì đổi, không đổi thì thôi!” .
Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói: “Chúng cháu đổi ạ”. Anh
quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số đưa cho mỗi chú một
chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận
không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói: “Ông đổi cho cháu cái vỏ
bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng”. Anh cầm cái vỏ bao xem lại
cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì
Nhà nước sẽ không phải chịu thua thiệt”.
Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn
lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời: “Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái.
Tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ...”.
Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã
trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỷ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa
dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa, anh vừa nói:
“Hiện tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có
liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng
cho đến những năm tháng gần đây...
Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những sự việc mà từ trước đến
nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo bản Tuyên ngôn Độc lập cụ Hồ
viết... còn hay mất, nếu còn thì bây giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu
trong bản Tuyên ngôn, nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng
ban Tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan
đến vận mệnh đất nước này, nhưng... như chú biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng
Hồ Chí Minh cũng như Bảo làng Lịch sử, không có bản thảo Tuyên ngôn Độc lập...
Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổỉ đầu rồi còn gì, mà lại không có
điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng là đóm
thật”...
Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp:
“ Chú có biết điều lo lắng nhất hiện nay của tôi là gì không?”
không đợi tôi đoán, anh nói luôn: “ Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc
sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên Hà Nội... Nhưng lúc
chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không
phải ruột rà máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng
vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường, các thầy cô giáo, các cháu học
sinh... Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà Nội. Ở đây, tại quê hương
bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết. Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây
cũng nhìn thấy...”
Tôi theo anh ra đứng lên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông
bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi
tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt.
“ Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ dày lá tre
rụng, rất vừa người tôi... Tôi sẽ nằm ở đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã
chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi
tay...”.
Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là vì bị cảm...
Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất
giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang về tặng anh:
... Mặt ra giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn!
Tháng 12.1992
Phùng Quán