Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2010

Bùi Giáng: người tiên lạc bước hồng trần

Sảng khoái phì phèo vài khói thuốc
Trăm năm hồ dễ cuộc rong chơi
Miên Như

Bài của tác giả: ĐOÀN VỊ THƯỢNG (THỂ THAO & VĂN HÓA)
Đã được xuất bản.: 30/10/2010 06:00 GMT+7 Tuan bao Vietnam

Bùi Giáng có lần bị một người bán hủ tiếu đánh bị thương khá nặng, phải vào bệnh viện. Người thân của ông định "trả thù", nghe vậy, nằm trên giường bệnh, ông nói: "Hãy tha cho họ, họ là người thường mới đánh mình, vì họ không biết mình là con nhà trời. Nếu kiện, họ đi tù, lấy ai bán hủ tiếu cho bà con ăn".
Người ta chứng kiến, trong cuộc sống, Bùi Giáng thỉnh thoảng có những hành vi, sinh hoạt khác thường, chẳng hạn mặc một lần nhiều bộ quần áo lên người; ra đường hò hét, huơ gậy giữa đám đông; thản nhiên đứng tắm nơi vòi nước công cộng..., rồi kết luận là ông điên (cũng do một phần, ông thường tự nói là mình điên trong nhiều bài viết, bài thơ). Thật ra, có lẽ đó chỉ là biểu hiện của một tâm hồn linh nhạy thái quá, do tố chất (khuynh hướng) siêu hình sung mãn ẩn chứa bên trong "đẩy đưa" mà thành ra bên ngoài như vậy.
"Lỡ từ lạc bước bước ra"
Trong con người Bùi Giáng có một tố chất mẫn nhạy với cõi siêu hình. Cũng một sự kiện, thậm chí một câu thơ vu vơ (nhưng tất nhiên phải hay), ông dễ liên tưởng đến những ý nghĩa, tư tưởng diệu vợi phía sau nó. Chẳng hạn với câu thơ "Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm" của Xuân Diệu, ông "phát hiện" đó chính là nói về tâm hồn của những thi sĩ phiêu bồng, luôn "bị" những cái vu vơ "kêu thầm" để mà lãng đãng, để mà suốt đời lên đường tìm kiếm một cái gì đó, và rốt cuộc để mà hệ lụy.
Một đối tượng của siêu hình ám ảnh ông nặng nhất chính là việc con người sinh ra. Vì sao sinh ra? Sinh ra rồi tại sao lại chết? Thuở đầu đời cầm bút, ông đã có 2 câu thơ hay nói về điều này: Lỡ từ lạc bước bước ra/ Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn. Ông cho rằng sinh ra đời đã là "lỡ từ lạc bước bước ra" và phải đi tiếp mãi trên đường đời không thể chống chọi lại. Và "chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn" cũng là cách ông nói về sự gắn kết tâm thức mình với những rừng hoa trên núi ngàn quê ông, cái đẹp của chúng mà ông lần đầu được ngắm đã thành cái mênh mông xa vắng mãi trong tâm hồn ông. Lại có lần ông viết về mình: "Thi sĩ sinh ra giữa cỏ cây ly kỳ gây cấn và sẽ chết đi giữa cây cỏ gây cấn ly kỳ". Đó là cách nói quá thiết tha mẫn nhạy về cái cảm trạng ông sinh ra đời và làm thơ, nó đứng ở mép rìa cõi... điên, và ông bị cho "nói điên" là vì vậy.
Khi được ai đó mời ăn tô phở hay hủ tiếu, ông thường lựa ăn... thịt trước. Người ta hỏi "ăn vậy sao ngon?", ông đáp ngay "thì cái ngon nên ăn trước chớ rủi chết bất tử thì sao"! Qua đó, người ta dễ kết luận "Bùi Giáng điên", nhưng rõ ràng là sâu xa trong ông, cái chết luôn ám ảnh thường trực. Có lần ăn mì Quảng (món ăn rất quen thuộc ở quê ông), ông chợt thở dài quay sang nói với ông bạn "ta ăn hai ngàn tô mì nữa ta chết". Ông bạn ngớ người. Nhưng đó là một câu nói... thăm thẳm!
Điều đó lý giải vì sao, bên cạnh làm thơ, Bùi Giáng đã nhanh chóng cùng lúc đi sâu vào nghiên cứu, luận bàn triết học và có nhiều tác phẩm "đánh động" về lĩnh vực này.
Người trời?!
Cũng vì "cái tật" hay vào quán... hò hét, chỉ trỏ, Bùi Giáng có lần bị một người bán hủ tiếu đánh bị thương khá nặng, phải vào bệnh viện. Người thân của ông định "trả thù", nghe vậy, nằm trên giường bệnh, ông nói: "Hãy tha cho họ, họ là người thường mới đánh mình, vì họ không biết mình là con nhà trời. Nếu kiện, họ đi tù, lấy ai bán hủ tiếu cho bà con ăn".
Nghe hai chữ "người trời", ai cũng lén cười, nhưng có lẽ Bùi Giáng nói... thật. Trong tâm thức ông luôn có những "giọng nói", "hình ảnh" siêu hình chất chứa. Nhiều lần, ông bật thốt những cái tên như Thích ca, Jesus, Khổng Tử, Trang Tử... cho đến Shakespeare, Nietzsche, Heideger... một cách tự nhiên để giải thích một điều gì đó trong câu chuyện đang nói, như thể những vị đó đã luôn là "bạn" của ông trong mọi lúc mọi nơi.
Những khi Bùi Giáng đứng chỉ tay rối rít giữa những ngã tư, nhiều người quen rất lo có ngày ông bị đụng xe (nhưng có cái lạ là ông không bao giờ bị đụng). Hỏi: "Đã có công an làm trật tự giao thông rồi, nhà thơ làm vậy chi nữa?", ông chỉ tay lên trời đáp: "Ta đâu có chỉ đường cho loài người. Ta chỉ đường cho các thiên thần đang đi lại trên trời kia kìa". Hồi giữa những năm 1960, có lần nhà văn - thầy giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường đi tìm ông và thấy ông đang ngủ cạnh một ngôi mộ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nhà văn đánh thức ông dậy, quát to: "Về nhà ngủ". Ông ngồi dậy, đưa tay lên miệng suỵt suỵt mấy tiếng, bảo "Mi nói nhỏ thôi để những người dưới mộ ngủ ngon".
Như thế cho thấy Bùi Giáng có năng lực... nhìn thấy người trời và người âm? Điều đó chỉ mình ông biết thôi, vì cũng chỉ mình ông nói ra. Nhưng qua các sự việc ấy, ít ra, ta thấy ông có khuynh hướng siêu hình mạnh mẽ. Nó đã chi phối không chỉ tư tưởng, thơ ca mà cả cuộc sống đời thường của ông. Ông quả là nhà thơ phiêu bồng theo cái nghĩa tinh mật của từ này.
Thiền tọa và tịnh khẩu
Có một Bùi Giáng ở nhà rất khác với Bùi Giáng ở ngoài đường phố. Nguyễn Thanh Hoài, người cháu rể ở chung với ông nhiều năm cuối đời, có lần hỏi "cháu thấy ở trong nhà mình đây, bác tỉnh táo và còn... khôn hơn người ta gấp trăm lần, vậy mà ai cũng nói bác điên, vậy bác điên giả bộ hay điên thiệt?" .
Ông cười trả lời: "Ta vốn là con trai cả trong nhà. Nhưng vì mẹ ta là vợ thứ nên ta trở thành con thứ sáu, gọi là Sáu Giáng. Tuy thế, vì ta là con cả nên trong nhà từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, tụi nó đều bắt ta đứng ra giải quyết, nên chi thôi ta... điên cho nhẹ người. Vì vô lẽ ăn rồi cứ đứng ra giải quyết ba cái chuyện trời ơi. He he, đã điên thì làm sao mà đứng ra hòa giải cho được". Đây cũng là một... triết lý, nhưng là một triết lý khôn "không thể nói" của con người nông thôn miền Trung còn lưu cữu trong con người nhà thơ phiêu bồng phố thị.
Cũng theo người cháu này, có những lúc Bùi Giáng ở hẳn trong nhà cả tháng trời. Suốt tháng đó, ông không hề mở miệng nói một câu, thậm chí cũng không đọc thơ vốn là nhu cầu "máu thịt" của ông. Ông chỉ nói một, hai từ trong những lúc cần thiết trao đổi. Ví dụ "ăn cơm không?", đáp "ừ"; "ăn thêm chén nữa?", đáp "không"... Và hình như "công án" tịnh khẩu dài lâu như thế không phải là điều dễ thực hành (ngay cả với người tu chân chính), cho nên người nhà thỉnh thoảng lại thấy ông lấy những áo quần cũ rách ra để ngồi vá. Ông vá thật khéo tay, miếng nào miếng nấy "đẹp như người ta vẽ". Chúng ta đồ rằng, với "công án" vá may đó, ông đã thực hành pháp chánh niệm của Phật giáo (chăm chú an trú trong hiện tiền, với việc mình đang làm từng giây phút) để rồi mới có những miếng vá "tuyệt vời" như vậy.
Bùi Giáng thường thức dậy rất sớm, mới tù mù sáng, ông đã ra khỏi nhà. Và thường thì đến khi tối mịt, ông mới về. Nhưng trong nhiều năm cuối đời, dù dậy sớm "phiêu bồng" đâu đó đến khuya, mỗi ngày ông đều ngồi thiền khoảng một tiếng vào hai "thời": khuya và sáng sớm. Nhiều vị tu sĩ cho biết: "Ngồi thiền đều đặn như thế giúp cho tâm trí và cơ thể cân bằng, có nhiều năng lượng sống". Chúng ta lại đồ rằng, Bùi Giáng đã rất "tỉnh táo" khi chọn cách tịnh khẩu và ngồi thiền như thế. Tố chất siêu hình nhiều khi khiến ông có vẻ "điên", nhưng cũng chính cái đó "đẩy" ông đến gần hơn với thế giới của tôn giáo nghiêm mật và minh triết.
Những lập ngôn minh triết
Không kể đến văn chương, ngay trong những trò chuyện đời thường, Bùi Giáng hay có những câu nói ấn tượng. Chúng mang tính "thông điệp" siêu hình riêng của ông chăng?
Có lần bị bệnh, người quen đến thăm, xuýt xoa, ông chậm rãi nói: "Ta có bệnh chi mô, chẳng qua ông trời hắn khó ở, hắn bệnh nên ta mới bệnh theo". Lại là lời nói... điên, nhưng thực ra... chính xác lạ kỳ. Ai cũng biết, khi đất trời, thời tiết chuyển đổi, cơ thể con người cũng bị ảnh hưởng, và người đang yếu lúc ấy lâm bệnh là phải.
Năm 1969, ông vào Bệnh viện tâm thần Biên Hòa, nhưng chưa đầy một năm thì ra viện. Có người hỏi "bệnh viện chữa hay quá nhỉ?", ông tỉnh rụi: "Đâu phải vậy. Tại ta ở ngoài đời điên số một, nhưng vào trong thì thấy mình... đồ bỏ. Có nhiều đứa hắn điên còn rực rỡ hơn mình nên ta phải tự động thôi điên... cho khỏe". Dễ hiểu với cái kiểu "điên khôn" như vậy, ông mới viết được hàng chục cuốn sách triết học rối rắm mà thông tuệ. Cũng có khi ông làm bộ nói thay cho người đời bằng những câu thơ: "Ông điên mà dzui dzẻ thập thành/ Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn thiu".
Vậy cho nên, lúc ra viện, ông đã trêu bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh, người trực tiếp chữa bệnh điên cho ông, với câu nói thay cho ông bác sĩ: "Hỏi chuyện ngài để thăm dò chứng bệnh, rốt cuộc ta không còn biết là ngài điên hay chính ta điên". Những câu nói như thế thường khiến những người dù là trí thức cao cấp chăng nữa cũng phải xem lại cuộc sống và cả những tư duy máy móc của mình.

Thứ Năm, 28 tháng 10, 2010

Những người 'bất lực' trên Cánh đồng bất tận

Tác giả: HOÀNG HƯỜNG
Bài đã được xuất bản.: 28/10/2010 06:00 GMT+7 trên Tuần bào Vietnam
Với phim Cánh đồng bất tận, nỗi niềm của các nhà phê bình, sự tiếc nuối của họ không phải không có lý, nhưng âu cũng có lý do của nó.
Khỏi nói độc giả văn học, mà ngay cả nhiều người trước đó thờ ơ với văn hóa đọc cũng từng bị lôi kéo vào thế giới của Nguyễn Ngọc Tư, sau khi bị những cánh đồng miền tây Nam Bộ của cô huyễn hoặc.
Một cảnh trong Cánh đồng bất tận, Ảnh BHD
Không giật gân câu khách, không đao to búa lớn, giọng văn nhẹ nhẹ thoảng thoảng mà đau như dao cắt, với những câu chuyện rất thật, rất đời của Tư đã chinh phục từ những độc giả bình thường đến các nhà phê bình khó tính.
Một truyện vừa, bìa sách không có hình ảnh HOT đã trở thành best-seller, cái tên Nguyễn Ngọc Tư trở thành đề tài bàn cãi trên khắp các văn đàn. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi những nhà làm phim nhạy bén thị trường nhanh chân mua ngay bản quyền tác phẩm từ khi nó đang rầm rộ; và cũng không ngạc nhiên khi bộ phim ngay khi trên cánh đồng trường quay đã được bàn tán chờ đợi - và tất nhiên - nóng ngay ở những suất chiếu đầu tiên.
Cánh đồng bất tận (phim) đã thành công trong việc xây dựng một câu chuyện buồn và đẹp, buồn rơi nước mắt và đẹp nao lòng với những cánh đồng bát ngát, đẹp đến xa lạ.
Cùng một dàn diễn viên cũng đẹp như tranh, cả về hình thức lẫn tiếng tăm; từ những tên tuổi quen thuộc như Dustin Trí Nguyễn, Hải Yến, Tăng Thanh Hà đến những gương mặt mới như Ninh Dương Lan Ngọc, Thanh Hòa đều là những khuôn mặt tuyệt vời cho điện ảnh.
Lấy tiêu đề 'không đứng về phe nước mắt', một bộ phận độc giả của Cánh đồng bất tận truyện), nhà văn, nhà phê bình... đứng giữa hai 'cánh đồng' của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình để bình luận câu chuyện.
Nhà văn Hồ Trung Tú đưa ra nhận xét của hai nhà văn khác là Nguyễn Quang Sáng "Chuyện có, văn có, cảnh có, nhân vật rất đậm nét, chỉ còn có hình có nhạc nữa là xong bộ phim" và Nguyễn Quang Lập "Đọc xong cánh đồng bất tận, mình thấy ngôn ngữ điện ảnh đầy ắp. Chưa thấy tác phẩm nào mà người Nam bộ lại đẹp một cách đau đớn đến thế" làm mệnh đề để phân tích câu chuyện đủ các 'tầng cảm xúc' của Nguyễn Ngọc Tư.
Hồ Trung Tú nhận xét "với một câu chuyện văn học như vậy thì chuyển thể sang kịch nói, cải lương, hát chèo gì đi nữa thì cũng lấy nước mắt khán giả một cách dễ dàng" rồi kết lại "Biết đòi hỏi là vô lý khi các tác giả đã không thể chạm tới được những tầng sâu ấy của tác phẩm nhưng chúng ta vẫn có quyền tiếc. Đơn giản là vì chúng ta đã bị đánh cắp mất đề tài, mất cơ hội để xem một tác phẩm điện ảnh có quyền để hay với thế giới".
Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn thì dùng hình ảnh 'photoshop' để chỉ cách đạo diễn đã 'trang điểm' cả nội dung câu chuyện và những hình ảnh 'đẹp đến xa lạ' trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Phan Quang Bình, nhấn vào một số tình tiết được thay đổi trong câu chuyện và đặc biệt cái kết của phim.
Còn nhớ thời điểm cách đây vài năm, sau khi cuốn truyện được công bố một thời gian, các cơ quan chức năng Cà Mau đã 'góp phần' làm Cánh đồng bất tận nổi tiếng hơn với việc đòi kiểm điểm, phê bình nhà văn Nguyễn Ngọc Tư vì đã "nói cái xấu nhiều quá! Và cũng cô đọng quá! Những nhân vật ông già, con cháu, gái làm đĩ..., kể cả cán bộ xã đều là nhân vật xấu" như lời một vị lãnh đạo Cà Mau trả lời về lý do kiểm điểm nhà văn.
Sự việc ầm ĩ cũng qua, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng bình an vô sự, nhưng cũng đủ để lại một bài học kinh nghiệm.
Trong truyện, hai vị kiểm dịch (cán bộ xã) đến, mang đi vài con vịt, mang đi hy vọng cuối cùng của Sương về một mái ấm gia đình, mang đi niềm an ủi gần như duy nhất của chị em Nương - Điền; và đổ thêm đắng cay lên tâm hồn vốn đã ngập tràn tổn thương uất hận và khinh bỉ phụ nữ của ông Võ.
Bài học 'nói xấu cán bộ' từ Nguyễn Ngọc Tư hẳn được Nguyễn Phan Quang Bình thấm thía và linh hoạt chuyển đổi. Hai 'cường hào' được thay bằng mấy gã lưu manh giả danh. Cán bộ vô can trong việc chà đạp lên một gia đình vốn đã tận cùng khốn khổ.
Đặc biệt, cái kết phim gây tranh cãi hơn cả. Nguyễn Ngọc Tư chọn kết ở trường đoạn Nương - cô con gái bị cưỡng hiếp, lúc đó cô nhớ về mẹ trong nỗi đau phụ nữ ê chề, cô gọi Điền trong lúc cùng cực thay vì gọi cha, bởi vì thực tế người cha ấy như đã chết; tiếng gọi làm ông Võ đau đớn bừng tỉnh.
Cái kết dữ dội của Ngọc Tư thốc vào tim người đọc, làm nó rung lên đau đớn và dư âm của nó cứ vang mãi.
Cánh đồng của Nguyễn Phan Quang Bình khi Điền và Sương bỏ đi thay đổi nhanh chóng và có cái kết bất ngờ. Bỗng chốc, ông Võ thay tâm đổi tính đưa cho con gái chiếc nhẫn cưới ông mua cho vợ "để sau này con lấy chồng", rồi cô con nói một câu bông phèng "giá như 7 năm trước cha như bây giờ".
Bi kịch 7 năm trước đâu phải ông Võ gây ra, và nói câu đó để làm gì? Phải chăng chỉ là câu dẫn đến cái kết đẹp đến khó tin.
Ông Võ, khi ở tận cùng tổn thương vì bị phản bội, đã đốt nhà đi biệt xứ, trốn chạy ký ức lại mang theo lá thư và nhẫn cưới của người vợ, hai thứ đáng phải trốn chạy nhất.
Giống như vùng đất bị sa mạc hóa bỗng chốc có phép tiên để trở nên tươi tốt màu mỡ, đỉnh điểm bi kịch khi con gái bị cưỡng hiếp, tài sản cuối cùng bị tước đoạt bỗng chốc lại biến ông Võ thành một lái đò hiền lành đưa trẻ đi học. Cô con gái Nương với bụng chửa với lời tự sự "con sẽ thành đứa trẻ ngoan vì có mẹ dạy dỗ" biến sự dữ dội của Nguyễn Ngọc Tư thành câu chuyện đèm đẹp tròn trĩnh như hòn bi
Gọt chân cho vừa giày?
"Trong một tác phẩm có tốt có xấu cho tròn trịa", phát biểu của vị lãnh đạo Cà Mau không những được nghệ sĩ 'lĩnh hội' trong Cánh đồng bất tận, mà có lẽ còn trở thành 'kim chỉ nam' cho các văn nghệ sĩ trong công tác sáng tạo.
Tiêu chí 'giáo dục' 'định hướng thẩm mỹ' cho người xem được các nhà quản lý văn hóa quán triệt tuyệt đối, đúng như tinh thần đồng chí lãnh đạo Cà Mau nói trên. Hình như 'đẹp tròn trịa' mới lăn được qua cửa kiểm duyệt, chứ 'xấu góc cạnh' e thời gian chờ đợi sẽ là bất tận, hoặc im lặng bất tận (phim Thủ tướng của hãng Giải Phóng là một ví dụ).
Đặt một giả thiết, nếu Cánh đồng bất tận (phim) không tự vo mình tròn trịa liệu có phải đối mặt với một trận bão táp 'kiểm điểm tư tưởng' như Cánh đồng bất tận (truyện) hay không?
Ở ta nghệ thuật - đặc biệt điện ảnh - từ lâu đã được đeo thêm những trách nhiệm nặng nề, gánh vác cả phần giáo dục và chính trị xã hội. "Mỗi nghệ sĩ là một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng".
Như một đạo diễn nói vui "Việt Nam tuy không sản xuất phim thiếu nhi, nhưng phim nào cũng có thể chiếu ngày 1 - 6".
Trở lại Cánh đồng bất tận, nỗi niềm của các nhà phê bình, sự tiếc nuối của họ không phải không có lý, nhưng âu cũng có lý do của nó.
Nhưng văn học nghệ thuật vốn là hư cấu, giá như những người cầm cân nảy mực đừng quá nhạy cảm, đừng lăm lăm những cái mũ sẵn sàng chụp xuống đầu nghệ sĩ, rất có thể đạo diễn đã chọn cho phim một cái kết khác, những nhà sản xuất cũng vững tâm hơn với những sáng tạo mạnh mẽ độc lập, thay vì vừa làm vừa canh chừng 'bác nghĩ sao em nghe thế", rào rậu những sáng tạo của mình ngay từ ý tưởng.
Thay vì lèo lái vo lại thành cái kết an toàn, đèm đẹp đúng 'tiêu chuẩn', rất có thể Nguyễn Phan Quang Bình đã chọn cho phim của anh một đột phá mạnh mẽ và ấn tượng hơn chăng.
Lại nhớ chuyện cô Cám vì quyết lấy được vương tử mà phải gọt chân để đi vừa chiếc giày. Các nhà làm phim cũng phải 'photoshop' để được ra rạp. Không thể khác. Trong cánh đồng sáng tạo bất tận, họ là những kẻ 'gọt chân' bất lực.
Hoàng Hường
Nhìn lại 'bài học' của Nguyễn Ngọc Tư
Tác phẩm Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ) của Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc. Nhưng mới đây, cơ quan chức năng tỉnh Cà Mau đã yêu cầu kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc Tư về những nội dung trong tác phẩm này.
Sáng 7-4, ông Dương Việt Thắng và ông Trần Văn Hiện - trưởng và phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau - đã có buổi trao đổi với Tuổi Trẻ.
* Dư luận cho rằng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (NNT) - tác giả truyện ngắn Cánh đồng bất tận (CĐBT) - vừa bị Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau đề nghị Hội Văn học nghệ thuật tỉnh kiểm điểm “phê phán tác giả một cách nghiêm khắc”. Điều này có không, thưa ông?
- Ông Dương Việt Thắng: Đúng là chúng tôi có buổi làm việc với lãnh đạo Hội VHNT, sau khi xem xét những vấn đề dư luận phản ánh, chúng tôi đã đề nghị có ý kiến về các mặt tích cực, hạn chế và đề nghị Hội VHNT kiểm điểm tác giả.
* Nhưng từ tháng 9-2005 đã có nhiều báo, tạp chí trung ương địa phương đăng tải, bình phẩm truyện CĐBT. Vậy tại sao mãi đến 27-3-2006 Ban Tuyên giáo tỉnh mới có thông báo kiểm điểm NNT, thưa ông?
- Thì ngay lúc đầu tôi có đọc cũng chưa thấy ai nói gì. Sau đó có nhiều ý kiến khen chê trái ngược nhau gọi, gửi về Ban Tuyên giáo tỉnh ủy. Ngay lúc đó chúng tôi định làm việc nhưng các đồng chí trong Hội VHNT bận việc, đồng chí chủ tịch hội bị bệnh phải phẫu thuật, phải chờ. Nhà văn NNT nằm trong biên chế của hội nên phải gặp thủ trưởng của nhà văn mới làm việc được.
Ngày 24-3- 2006 chúng tôi đã làm việc với lãnh đạo Hội VHNT gồm các đồng chí Mười Thanh (chủ tịch hội) và hai phó chủ tịch hội Lê Đình Trường, Hoàng Thêm. Đã nhận xét những ý kiến khen chê.
* Ý kiến đó thế nào, nhiều không, thưa ông?
- Sau khi CĐBT ra mắt độc giả, có rất nhiều ý kiến. Khen thì nhiều - ông Thắng cười xòa nói - nhất là khi báo Tuổi Trẻ và cả Đài truyền hình VTV giới thiệu, đăng tải. Nhưng cũng không ít ý kiến chê rất dữ.
Có độc giả Việt kiều và cả các nhà nghiên cứu phê bình văn học cho rằng đây là thứ văn chương phản động, thậm chí là chống cộng; tục tĩu dâm ô; chống lại chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chủ yếu là chị em phụ nữ, tại vì họ giận!
* Cụ thể giận ra sao, thưa ông?
- Vùng đất tác phẩm thể hiện chủ yếu ở Cà Mau, huyện Đầm Dơi là nơi có nhiều địa danh lịch sử như Bàu Sen, đầm Bìm Bịp... Đó là ý kiến của nhiều người, trong đó có số cán bộ đã gửi về cho ngành văn hóa và cá nhân lãnh đạo tỉnh ủy, có cả dịch giả nghiên cứu văn hóa Nguyễn Kim Dân ở P.3, Q.Bình Thạnh, TP.HCM. Thể hiện ý kiến bằng các văn bản thư từ, có ý kiến còn đề nghị tổ chức hội thảo nữa.
* Ông đánh giá ra sao về nội dung ý kiến của độc giả?
- Qua buổi làm việc (với Hội VHNT tỉnh) đã có ý kiến thống nhất: nói truyện ngắn CĐBT là phản động và chống cộng là không phải. Chúng tôi không cho là như vậy, không thể qua một truyện ngắn, một tác giả mà đánh giá như vậy được.
Còn nói là dâm ô tục tĩu cũng không phải đâu bởi trong truyện chỉ có vài ý nhỏ thôi, không thể đánh giá được.
* Thế còn ý kiến cho rằng NNT ám chỉ về địa danh “bôi nhọ” địa phương?
- Về vấn đề địa danh, tôi nghĩ không chỉ có Cà Mau mà NNT đã nói chung cho cả vùng Tây Nam bộ.
* Cụ thể hơn, ông thấy thế nào?
- Về chủ đề tư tưởng, tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần. Tôi thấy nói cái xấu nhiều quá! Và cũng cô đọng quá! Những nhân vật ông già, con cháu, gái làm đĩ..., kể cả cán bộ xã đều là nhân vật xấu. Quan điểm chúng tôi không phải không cho nói cái xấu, nói không biện chứng.
Tốt xấu bao giờ cũng có cả hai, tỉ lệ phải như thế nào đó. Nói xấu trong tác phẩm này có nhiều tình tiết đã nói quá hiện thực. Không đúng!
* Ông có thể nêu ra vài điển hình?
- Ví dụ như miêu tả gái điếm mà NNT dùng từ “dập dìu trên bờ đê” thì làm gì có. Hay như đoạn viết có nội dung: sau đợt dập dịch cúm gia cầm xong thì một phụ nữ đã buồn tiếc của mà uống thuốc tự vận.
Thực tế trong cả nước đến nay vẫn chưa có người tự vận như vậy mà chỉ có thể buồn chán thôi. Người nuôi có gia cầm bị tiêu hủy đều được bồi thường tiền. Hoặc như chi tiết: ông già chơi đĩ xong đã trả tiền cho đĩ ngay trước mặt con là không có.
Từ những chi tiết như thế, chúng tôi cho rằng tác phẩm này không có tác dụng giáo dục xã hội, giáo dục con người. Tôi không viết văn nhưng tôi biết chức năng của văn học là chức năng giáo dục và định hướng.
Mặc dù mặt trái của kinh tế thị trường có cái xấu, cái xuống cấp nhưng đa số vẫn tốt. Nói vậy để con người còn niềm tin, lạc quan hơn với cuộc sống.
* Ông đánh giá mức độ phản ứng giữa CĐBT lần này so với Cù lao Tràm của những năm đầu đổi mới thế nào, thưa ông?
- Cù lao Tràm cũng có nói tốt dù thời kỳ mới đổi mới nói về mặt trái hơi nhiều! Sau này lại có Cái đêm hôm ấy đêm gì của một tác giả ở Thanh Hóa cũng bị phản ứng! Ý tôi muốn nói trong một tác phẩm có tốt có xấu cho tròn trịa vậy thôi, không thì thiếu tính giáo dục.
Người đọc sẽ thấy bi quan. Tiến sĩ Thái Văn Long - giám đốc Sở GD-ĐT tỉnh Cà Mau - có nói không nên cho học sinh coi CĐBT vì đọc xong học sinh sẽ hiểu “xã hội dập dìu đĩ”. Có cựu chiến binh tên Nguyễn Hiền Thân ở Bà Rịa - Vũng Tàu sau khi đọc xong CĐBT đã tát cô con gái của mình chỉ vì con của ông khen CĐBT hay!
* Ông nhận định sao về hai luồng ý kiến khen chê?
- Phải chờ ý kiến của các nhà phê bình văn học. Vụ trưởng Vụ VH Đỗ Kim Cuông có gặp tôi nói riêng: nhận thức tư tưởng của NNT còn non kém chứ không có chống cộng gì đâu! Chúng tôi đề nghị hội tạo điều kiện cho nhà văn nâng cao nhận thức nghiệp vụ chuyên môn. Chứ như hiện nay NNT mới học xong lớp 11 mà thôi!
* Thực tế NNT đã bị kiểm điểm chưa và kiểm điểm đến mức nào, thưa ông?
- Mục đích chính của lần mổ xẻ này là để nhà văn có dịp nhìn lại và sáng tác tốt hơn. Cũng nhẹ nhàng thôi, không có gì cay cú hay gay gắt cho dù có ý kiến còn đòi bài trừ, trục xuất nhà văn ra khỏi địa bàn.
* Trở lại với CĐBT, thưa ông Thắng, ông có nghĩ CĐBT nói cái xấu là có hại không? Văn học nghệ thuật được quyền hư cấu không, thưa ông?
- Nói cái xấu để thức tỉnh là điều tốt. Nhưng nói gì thì nói cũng phải có tính định hướng. Anh hình dung xem, trẻ mới lớn lên mà đọc CĐBT sẽ thấy cái này sao mà quá trời vậy! Trẻ sẽ hoài nghi quá đi chứ.
Đúng là sáng tác văn học nghệ thuật được quyền hư cấu nhưng phải trên cơ sở sự thật. Nói quá thành bác Ba Phi rồi! Nói quá mà nói về cái tốt, nhân cách hóa sẽ có tính xây dựng. Theo tôi, hư cấu như thế tốt.
* Vậy ông có thể cho biết có bao nhiêu phần trăm sự thật trong CĐBT? Ông đánh giá sao về nhà văn này!
- Tôi đánh giá cao phong cách ngôn ngữ thể hiện - đặc điểm đặc sản miền Nam - của NNT. Tôi không thể cân đo giá trị một tác phẩm văn học như làm kinh tế được.
* Xin cảm ơn ông!
TRẦN ĐỨC thực hiện
Đề nghị:
- Hội Văn học nghệ thuật kiểm điểm phê phán tác giả một cách nghiêm khắc, rút kinh nghiệm khi viết, cần phải có thực tiễn cuộc sống, cái đẹp, cái tốt mà xã hội đang xây dựng và phát triển. Tất nhiên, cần phê phán cái chưa tốt, nhưng phải đúng hiện thực và có định hướng cho con người đến cái chân - thiện - mỹ.
- Hội Văn học nghệ thuật nên thường xuyên có định hướng cho người viết, sáng tác nên những tác phẩm hay, có phê phán nhưng phải thận trọng tránh gây nên một phản ứng xã hội gay gắt đối với tác phẩm.
- Thường xuyên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tất cả hội viên ở các lĩnh vực (có Nguyễn Ngọc Tư) được tham gia học tập lý luận chính trị, trau dồi đạo đức phẩm chất, nâng cao ý thức trách nhiệm của người cầm bút, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Riêng nội dung trả lời phỏng vấn với một số báo thiếu trách nhiệm, đề nghị Đảng, Đoàn nơi Nguyễn Ngọc Tư sinh hoạt giáo dục và kiểm điểm.
(Trích báo cáo ngày 27-3-2006 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau)
Bài đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 8-4-2006

Không gian… của Nguyễn Ngọc Tư

Nguyên Ngọc
Tôi vừa xuống Cà Mau. Và tất nhiên bây giờ Cà Mau… tức là Nguyễn Ngọc Tư. Thậm chí - tôi xin lỗi hết cả bà con Cà Mau, và xin lỗi cả Tư nữa - quả thật không biết nếu như không có Nguyễn Ngọc Tư thì Cà Mau có còn hoàn toàn là Cà Mau bây giờ không. Tất nhiên vẫn là Cà Mau, nhưng sẽ là một Cà Mau có thể nhỏ hơn một chút, thiếu hơn một chút, thiếu cụ thể điều gì thì cũng thật khó nói, nhưng rõ ràng là sẽ thiếu, thiếu một điều gì đó đang làm cho không gian Cà Mau không rộng và sâu, xa, gần và hiện đại được như bây giờ khi có cô nhà văn ấy.

Tôi gặp Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau lần đầu là cách đây đâu khoảng mươi năm (vừa rồi cô ấy xác nhận lại trí nhớ của tôi, cô bảo cô xin về làm ở hội Văn nghệ Cà Mau đến nay vừa đúng mười năm). Bữa đó ngồi với anh chủ tịch hội (anh ấy bây giờ vẫn là chủ tịch hội), tôi nói linh tinh những chuyện gì đó không thể nào nhớ được nữa. Thỉnh thoảng lại thấy có một “con nhỏ” chạy vô chạy ra rót nước, đôi lúc dừng lại một chút chừng lắng nghe chúng tôi. Và hình như hơi cười. Bây giờ nghĩ lại lo quá, không biết bữa đó mình có bốc đồng nói linh tinh những gì to tát hùng hồn về văn chương không. Bởi vì “con nhỏ rót nước” đó chẳng bao lâu sau sẽ là… Nguyễn Ngọc Tư.
Thật tình khi Tư bắt đầu được dư luận chú ý tôi cũng không nhớ rõ “con nhỏ rót nước” bữa đó lắm, chỉ loáng thoáng hình ảnh một cô gái trẻ rất quê, mặt mày cũng không lấy gì làm sáng sủa, hình như là mặc chiếc áo xanh, suốt buổi chỉ chạy lên chạy xuống châm nước, sau đó chạy đi đâu đấy hơi lâu, chắc là ra ngoài phố đặt tiệc cho anh chủ tịch hội tiếp khách thủ đô về… Những lần gặp Tư sau này, lúc ở Hội An, lúc Sài Gòn hay Hà Nội, cũng chỉ chào qua năm ba câu, ở những cuộc hội họp long trọng ồn ào ấy Tư rất ít nói, ít xuất hiện, thường lủi thủi một góc vắng, ngồi sau một cây cột to chẳng hạn, vẫn rất quê, và không như nhiều người viết trẻ thường thích làm quen đôi khi đến sấn sổ với những ông già đã nổi tiếng. Tôi để ý chưa bao giờ Tư tỏ ra muốn bắt quen với tôi, gặp nhau tôi hỏi câu gì thì cô trả lời câu ấy, rất ngắn, đại khái cũng chỉ những chuyện bâng quơ về sức khoẻ, đang viết gì, có hay ra ngoài này (Hà Nội) không, trong ấy (Cà Mau) bây giờ thế nào, anh A hay chị B có còn ở vị trí nào đó không… Vậy mà, tôi biết, hình như chúng tôi có hiểu nhau, rằng cái sự ồn ào, hào nhoáng kia chẳng có nghĩa lý gì, cả cái hội hè kia nữa, cũng là để mà chơi đấy thôi, văn chương là một cái gì đó rất khác, vừa bình thường vừa bí ẩn, riêng tư và… cô độc, cô đơn hơn rất nhiều… Rồi đến cái vụ Cánh đồng… Tôi đã có lần nói rồi, và lần này xin nói lại, và trước khi nói tất nhiên phải xin lỗi tất cả những người cầm bút: Để mà tính chuyện đi ra thế giới, tức là cái mà người ta gọi là mở rộng không gian văn học, và như thế cũng tức là không gian đất nước, ra với thế giới, với bàng dân thiên hạ, tức là cái sự bây giờ được gọi một cách nghiêm trang và hơi lo sợ là “hội nhập”, mà không phải sợ bất cứ ai hết, thì theo tôi trong văn học hiện đại ta có thể có mấy cái: Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một, một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là hai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là ba, và nay là Cánh đồng bất tận. Tôi nói thế này mà không sợ quá đáng đâu: Với Cánh đồng bất tận, văn chương ta bước vào toàn cầu hoá hôm nay một cách đàng hoàng, cùng và ngang bằng với những giá trị nghệ thuật và nhân văn của toàn cầu, chẳng phải nể ai hết. Nó đưa văn chương, và như thế cũng là con người của ta, ra toàn cầu, để cho toàn cầu biết rằng ta cũng là con người chẳng hề thua gì họ.
Chuyện Cánh đồng… bị đánh tơi bời như thế nào, ai cũng biết rồi. Tôi thậm chí còn biết không chỉ ở cấp tỉnh lẻ và trong những người làm công việc gọi là văn hoá tư tưởng, mà cả một số người làm văn chương hẳn hoi nữa kia. Và tôi còn biết, rất cụ thể, một vị chức sắc cao vòi vọi, từng không hề tiếc lời chửi bới nó cực kỳ thậm tệ. Cũng chẳng có gì lạ. Một số người, kể cả người cầm bút nữa, không hiểu gì văn chương cũng là chuyện thường. Và cũng không ai bắt một vị có chức quyền loại lớn phải hiểu thấu văn học. Có lẽ điều đáng nói, đáng kể hơn nhiều lại là ở ngay một số người… bênh vực Cánh đồng... Họ hăng hái, nhiệt tình, sôi nổi, cả hùng hổ nữa bênh vực Cánh đồng... bằng cách ra sức la to lên rằng ai kia mắng mỏ con nhỏ thì cứ chịu khó xắn quần cởi dép về đây mà coi, “cánh đồng” ở cái xứ này còn tệ gấp trăm lần “cánh đồng” của Tư… Nghĩa là rất buồn, và tôi biết Tư cũng buồn lắm về điều này. Họ yêu Tư, quý Tư, nhưng cũng chỉ đến mức hiểu Tư là một nhà văn rất hiện thực của Cà Mau, của miền Tây, là một cây bút dũng cảm dám nói lên những sự thực tăm tối và đau lòng đang còn tràn lan trên vùng đất đẹp và đáng yêu biết bao này. Họ phẫn nộ vì những kẻ “đánh” một cây bút to gan dám nói lên tất cả sự thật. Tư buồn không phải vì những người đánh cô đến té tát. Cô buồn vì những người yêu cô mà chẳng phải vì những điều cô đau đáu muốn nói về cuộc đời. Nguyễn Ngọc Tư nào có muốn nói về một Cà Mau, một miền đất. Chẳng qua cô gửi vào cái khung cảnh ấy, trên đất đai ấy, mà cô quen cô thuộc hơn bất cứ nơi nào trên thế gian này, một kiếp người, những kiếp người, hạnh phúc nhọc nhằn và đau khổ muôn đời của con người, cái chất thiên thần và quỷ sứ trộn lẫn bất trị, không gì không bao giờ chữa nổi trong con người. Và cô làm ra cái sản phẩm đã đưa văn học ta ra khỏi tình thế cám cảnh tỉnh lẻ của cái thời kéo dài “văn học phục vụ”, “văn học đi thực tế”, “văn học bám sát đời sống thực tế”, văn học “mũi nhọn mũi tà”… Nó đưa văn học trở lại là văn học, thế thôi, chẳng của gì hết. Và vì vậy, nó khiến văn học ta, cả chúng ta nói chung nữa, cũng “toàn cầu hoá” như ai. Nó tạo không gian mới cho chúng ta hít thở kiểu mới cùng thiên hạ…
Tôi xuống Cà Mau và được Nguyễn Ngọc Tư dẫn đi chơi, xuống Mũi (để xem một cái mũi đất Cà Mau đang bị bê tông hoá!), vào rừng U Minh để được lội giữa những rừng tràm tuy đã xơ xác nhiều so với những lần tôi đến trước đây nhưng thiên nhiên vẫn mạnh lắm, con người tàn bạo thế vẫn chưa tàn phá nổi hết rừng, chưa xoá đi hết được cái hoang dã mãi mãi lạ lùng của U Minh… Đi chơi với Tư ở Cà Mau rất thú, rất khác những lần gặp cô trong các cuộc hội họp văn chương. Bây giờ là một Nguyễn Ngọc Tư rất Tư, hình như có gầy hơn đôi chút so với những lần gặp trước, trông lanh lợi và sành sõi hẳn ra, sẵn sàng hiện đại nữa, hơi “ngầu” một chút, đôi lúc cũng ồn ào rồi chợt lắng đi, rất lặng, rất riêng, thậm chí có gì đó như chừng hơi khinh khỉnh... Tôi hiểu, người viết văn nào cũng vậy, cô gái tài năng này càng vậy, tinh ý một chút có thể cảm thấy cô vẫn giữ một khoảng cách với tất cả những gì đang diễn ra quanh mình, cái khoảng cách có lẽ chỉ những người sáng tác mới biết và hiểu được, vừa nhập cuộc đến cùng, vừa vẫn tách ra cô đơn, sự cô đơn không có nó thì không bao giờ thật sự có sáng tạo nghệ thuật. Cô đơn và lúng túng mãi giữa cuộc đời. Ở gần Tư và trong không khí này, hình như “ngửi” ra được cái mùi rất người và rất đời đó, nó làm cho cô ấy quả thật sự là một nhà văn, một nhà văn đã làm cho văn học ta ngang hàng với bất cứ ai, bởi vì, vậy đó, hình như nhà văn là người được sinh ra để mãi mãi nói lên cái lúng túng mãi mãi không sao thoát nổi của kiếp người. Ông già kỳ cục và cô con gái cũng kỳ cục không kém của ông trong Cánh đồng bất tận đấy, chẳng phải là họ quá lúng túng cái lúng túng của kiếp người, rất người đó sao?
… Ngồi trên vỏ lãi chèo vào rừng U Minh, Tư nhẹ nhàng báo tin cho tôi biết chỉ mấy ngày nữa cô sẽ chính thức thôi việc ở hội Văn nghệ tỉnh, mọi thứ đã xong, chỉ còn thủ tục ra đi. Vẫn sống ở Cà Mau nhưng làm một việc gì đó khác ở Sài Gòn. Im lặng một lát rồi cô nói tiếp, có lẽ cô sẽ dừng viết tạp văn một thời gian. Cũng như một cái hũ rượu ấy mà, cô bảo, ngày nào mình cũng giở nắp ra, miết rồi nó bay hơi hết, cho đến khi nhạt thách. Cô muốn chôn sâu nó một thời gian, có lẽ sẽ là dài, để cho nó sánh đặc lại. Ôi cái con nhỏ rót nước cho anh chủ tịch trang trọng tiếp khách ngày nào, hoá ra đấy mới là người biết nén không gian lại cho đến đặc sánh, để cho nó thật sâu và rộng ra, có sâu và rộng như vậy thì rồi ta mới có được cái không gian gọi là “toàn cầu” cùng thiên hạ. Cái không gian mà ta vẫn tưởng chỉ có thể tạo nên được bằng kinh tế, hay chính trị, hay gì gì đó...
Tôi về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư, và tôi yên tâm rằng ta có thể “toàn cầu hoá” cùng thiên hạ, có thể có được không gian ao ước với đầy triển vọng và thách thức ấy, chẳng lo gì. Khi văn học, cũng là văn hoá, đã đi được một bước như vậy...
Những ngày cuối cùng của năm 2007
Nguồn: Sài Gòn Tiếp Thị, 1-2-2008

Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2010

KEY FramePhotoEditor

Key FramePhotoEditor de lam mat dong chu tren hinh
21:11 13-08-2010
Đây: Ô đầu: sales@acampo.net
Ô sau:
000015-U9G7U9-RB9ZA2-QKGA95-1TZF77-UC7XE5-7XNRCC-GFWKA0-8WTVB7-8WDHGK

Thứ Tư, 21 tháng 7, 2010

Bùi Giáng, nhà thơ của ngày tháng NGAO DU


Tác giả: Cung Tích Biền - Chép từ trang Tạp chí da màu http://damau.org/archives/2800
Thi sĩ Bùi Giáng đã ra đi. Cuộc rong chơi rất đỗi tài tình của ông rồi cũng tạm ngưng. Ngưng phần hình. Phần hồn hãy tiếp tục tồn sinh cùng sử lịch qua tác phẩm của ông và chính cái sống rất mực Bùi Giáng nơi ông. Bùi Giáng giờ đây đã thong dong bỏ chân xuống tháng ngày một cuộc lữ tao nhã khác, cho riêng một đời thiêng Hoàng hạc.

Bùi Giáng đã trải một cánh bay dài mênh mông chiếc bóng trong bầu trời Thi ca Việt Nam nửa thế kỷ qua. Có thể mai kia, khi thần thái xã hội bình an hơn, việc thẩm định những giá trị được công bằng, trường hợp Bùi Giáng sẽ lại được lật qua lộn về tự do, nghiêm túc hơn.

Tôi viết bài này như một tri ân đối với những gì Bùi Giáng lưu dấu nơi tôi.

* ĐÔI LỜI PHÂN VÂN THƯA TRƯỚC

Hiểu về Bùi Giáng là khó; viết về ông thật vô cùng khó; nhất là Cõi Thơ riêng ông. “Làm thơ chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác”. Bùi Giáng từng nói như thế. Nhưng tùy nghi vào thể điệu rong chơi ngôn ngữ của Bùi Giáng thì nó không hẳn thế. Ba đào, chân trời? Hay Ba chân trào đời? Ba đời trào chân? Hay chân, trời, ba, đào? Hay chân-trời-ba-đào? Dìu ba đào về chân trời? Hay làm thơ là dìu chân trời về ba đào? Một trôi giạt đến mênh mông, ngay từ thế sự ngữ ngôn. Thật khó cho cách thở và cách nghĩ của người viết về ông – dù thở đủ kiểu và nghĩ ngợi ngay trong lúc chiêm bao.

Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay(1)

Ðây là câu thơ đẹp ở nhiều góc độ, nhưng nó rất có… vấn đề. Với một số não trạng thì nó rất mông lung, người đọc sẽ không nắm rõ chủ đích của tác giả như khi đọc câu: “Nếu anh sản xuất tăng gia, là em thu hoạch bò gà sắn khoai”. Cái gì là áo mù sa? Và ta vào supermarket nào để tìm cho ra cái phong nhụy quần? Do vậy, viết về Bùi Giáng không phải cho quan nào cũng đọc.

Trong Lễ Hội Tháng Ba Bùi Giáng chỉ ra một con đường không có bốn bên mép rìa: “Ðó là tiếng nói Tinh Thể Uyên Nguyên của thơ. Thy Sỹ đã bước vào Vòng Tay Rộng Rãi của Thiên Nhiên, và cuộc tiến nhập đó đã đặt người Thy Sĩ trong Cõi Nguồn Tinh Thể của mình”. Ðây là một đoạn viết hoa gấm nhưng dễ hiểu về mặt trực nhận. Nó hãy còn xôn xao dưới lớp từ ngữ kia những ẩn nghĩa rất cần thiết tìm ra để lý giải cho tận ngọn nguồn. Nó lại đòi hỏi một song trùng tĩnh luận về Thiên Nhiên – Nhà Thơ, Tinh Thể – Tạp Ngoại Thực Tại, Biến, Dịch… sau cùng là mối “liên hệ, phân hủy, lập dựng”, giữa Những-Cái-Tôi trong một Vũ Trụ Riêng Tôi.

Quả thật, viết về Bùi Giáng là tôi làm cái việc chỉ vào cục gạch mà bảo rằng đây là Như Lai phu nhân

1. BÙI GIÁNG- VÀI NÉT CHÂN DUNG

Bùi Giáng sinh thời có một khuôn mặt kỳ dị với một cặp mắt của rắn. Nó tròn vành vạnh, sắc sảo; khi Bùi Giáng nhìn tự nhiên là rất thông minh hiền từ; khi trừng trừng chú mục nó biểu lộ một tinh lực rực lửa, kỳ bí; nó có hai màu đen trắng quặn nhau, như cái hình vẽ biểu tượng cho thái cực; đôi mắt ấy luôn rực sáng, như hai vì sao; nó là cái lò luyện đan để tất cả lời thơ phi phàm bốc khói mây.

Ông có nụ cười khá bảng lảng, tha thứ; một giọng nói hiền hòa, không phân tranh. Hai đặc trưng này họa ra một Bùi Giáng trọn một đời phiêu bồng, ngoài Cõi, không tơ hào đến mảy may danh vọng quyền lực, không vợ con, không mái nhà; ông sống tha thiết với cuộc đời nhưng thường trực ngay ngã ba ngã tư những con đường lem luốc bụi giang hồ; dù thơ ông rất trang trọng, trí huệ.

Lý Bạch xưa đã từng uống rượu của triều đình, Ðào Tiềm đã lỡ ra làm quan sau mới Qui khứ lai từ. Bùi Giáng không hẳn đã hơn Ðào Tiềm, Lý Bạch nhưng ông không giải quyết bế tắc như Khuất Nguyên mà ông thanh thản rong chơi, kịch liệt đùa rỡn; luôn thông thái đổi mới cách chơi ngày ngày; nguy nga tạo dựng một nhân sinh quan rộng tỏa trên mọi nẻo đường tư tưởng; mãi tràn lan cuộc vui cùng nhân gian tháng rộng năm dài.

Như chúng ta, ông vẫn có nỗi buồn, vẫn nghe trong hương thời gian hắt hiu nỗi đau, vẫn sống vào một thời đạn bom [đạn bom tiếng nổ và đạn bom của Lời; đạn bom thảm họa hiểm nghèo và đạn-bom-thương-nhớ] nhưng ông đã gởi cuộc đời mình vào cái thế giới huyền nhiệm của Thi ca, đã “tàn dưới nguyệt” cho trò chơi riêng của mình.

Ông cũng đã, như chúng ta, được ân sủng và cùng lúc chịu tác hại từ thánh nhân, sách vở, tư tưởng, đạo lý, nhưng ông đã minh triết hóa giải nó vào một cuộc Ðiên. Một thế giới điên của nung nấu lửa tam muội, của bên kia bĩ ngạn. Một lẽ Trung Dung trác tuyệt, trong cái Ðiên. Bỏ nhầm cuộc đời xuống nhân loại buổi ấy chỉ có tả và hữu, ta và thù, chiến tranh là thường trực, hòa bình chỉ là một nhịp thở ngắn ngủi, Bùi Giáng đã có một thần thái đĩnh đạc để ngắm về nó, xem như bóng mây.

Sống giữa đời, ông có khả năng lấy mật đắng ớt cay làm ngọt. Ăn cơm để thiu nguội rất nhiều ngày. Ông ăn chè ngọt nấu cả với tương chao, nêm vài con mắm. Ông nổi tam bành lúc người đời lẽ ra nên cười, được phúc đắc lợi. Ông rất vui với những ngày chói lòa ánh dương trong một thị thành mà nhìn xe cộ tưởng hươu nai: Buồn phố thị cũng xa bay như gió/ Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu/ Bờ cõi dựng em xuân xanh còn đó/ Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu. Ông lạ sinh hoạt đời thường, lạ trong thi ca, tư tưởng. Ông rất đỗi cô đơn tự đọa đày; vầy cuộc chơi múa hát chỗ vô thanh, đùa giỡn quỷ thần, tương đắc với kẻ trong mộ, nhớ nhung người sẽ tới. Ông trào lộng tuyệt cùng giữa bi đát, siêu thoát ngay giữa một tồn sinh tinh mật. Nói chung cuộc sống của ông khá bí ẩn và kỳ dị.

2. BÙI GIÁNG –NHỮNG GIAI THOẠI TIÊU BIỂU

Ðã có rất nhiều giai thoại, huyền thoại về ông; vô số được thế gian tô bồi sau này, khó minh xác thực hư. Xin lai rai vài chuyện tiêu biểu.

Chuyện thứ nhất. Xưa kia ở Quảng Nam, quê chúng tôi, người ta kể rằng khi còn trẻ Bùi Giáng đã có vợ. Vợ sớm qua đời. Hôm tẩm liệm, ông nhờ người hàng xóm làm thịt 21 con gà. Ông thành tâm bỏ thịt con gà còn sống vào quan tài tẩm liệm người vợ thân yêu. Họ hàng thấy quái. Bèn can ngăn. Ông bảo: “Vợ tôi ưa ăn thịt gà, nay có thể lên thiên đường hoặc xuống địa phủ chi đó, thịt gà đâu ăn”.

Câu chuyện trên là hoàn toàn khó tin. Bịa đặt, phao tin đồn nhảm, gia đình người ta kiện cho. Nhưng cái tuyệt hảo ở đây là người đời đã rất đỗi yêu ông, giai thoại trên như một phóng họa phần nào những quái ảnh kỳ tâm nơi một Bùi Giáng lắm điều xem ra bất khả tư nghị. Bà đi thể điệu bước ra/ Tay khăn tay áo là hoa thêu thùa/ Bà về cỏ rậm dậu thưa/ Đêm tàn cấm nguyệt chiều trưa lâm tuyền.

Chuyện thứ hai. Vào đầu thập niên sáu mươi có lúc ông đi dạy Việt văn ở trường trung học tỉnh lỵ. Một hôm giảng Truyện Kiều, đến chỗ nàng Kiều phải hồng trần lưu lạc, thầy Giáng khóc òa. Khóc vỡ tan. Nhảy phóc qua cửa sổ lớp học, băng bộ ra bến xe, về Sài Gòn. Học trò nam nữ ngồi chờ mãi, tưởng thầy đi đâu đó sẽ trở lại. Trên bàn sách vở, bao thuốc lá hãy còn. Hóa ra thầy “bay” luôn, bỏ lớp bỏ trường, bỏ cả tỉnh lỵ nhiều năm sau. Hỏi hà cớ. Thầy ngậm ngùi nói mần răng trở lại nơi Em Kiều đã một lần hy sinh cho cái trò chơi nhân gian kỳ ảo chỗ liên tồn.

Nguyễn Du xưa kia đã một lần than thở “Ðịa địa xứ xứ giai Mịch La”(2). Bùi Giáng hôm nay cũng có thể.

Sau này, đọc Mùa Thu Thi Ca, đoạn nói về Ðoạn trường tân thanh, ta thấy ông viết:

“Nguyễn Du không kinh hoàng nhảy lui. Cũng không bị tẩu hỏa nhập ma rú lên một tiếng như Zarathustra also sprach. Ông đạm nhiên làm Nam Hải Ðiếu Ðồ. Kẻ câu cái gì tại Nam Hải?

Ðáp cho câu hỏi ấy, ta mượn một câu thơ Phùng Khánh:

Con làm Nam Hải Ðiếu Ðồ
Ngồi câu con Cá Hư Vô Tâm Hồn.

Tựu trung mỗi phen sờ mó vào Kiều nhi, vừa chạm tới những tuyệt diệu từ lãng đãng phù động kia, chớm gặp Xuân đã ngộ phải Thu, vừa ướm hỏi ra Thu đã vấp phải Ðông Phong Thanh Hạ, vừa tân thanh ngâm bãi đã trường đoạn thê nhiên, chợt mới hội thương tình đã hốt bách cảm sinh, mới vừa mơ màng nhìn Hồng Lĩnh vân phong đã giật mình nghe ra Tiền Ðường triều tiêu, chưa kịp qui ẩn kinh, đã bàng hoàng với phiến oan thanh. Bỏ ra Nam Hải buông câu chỉ bắt được Hư Vô Con Cá…”

Chuyện thứ ba. 1975. Thời của thu vàng một loáng hóa rừng phong hoang hồng, xao xác đến muôn trùng số mệnh con người hoa cỏ. Tôi có dịp lai rai sống với Bùi Trung Niên Thi Sĩ. Thưở ấy đói kinh. Người người tăng gia, nhà nhà sản xuất. Cuốc đào cả lề đường hè phố, vườn biệt thự, trồng luống khoai hàng sắn. Cày xới nát bộ não vì cái ăn, cái Ði – Ở. Tâm linh màu chì.

Một hôm chúng tôi đang đi long nhong gần nhà thờ Ba Chuông kiếm vài chung quốc lủi, Bùi Giáng bỗng nói: nè cha, ta về nhà chút đã. Tôi hỏi về mần chi. Ông bảo cho heo gà ăn chớ không tụi nó chết. Hóa ra thi sĩ cũng tăng gia sản xuất. Về nhà – trong hẻm, gần cổng xe lửa số 6 – đã thấy ngay trước hàng hiên có mấy con… heo đất, mấy con vịt nhựa – loại được khoét một đường rãnh trên lưng, để bỏ tiền tiết kiệm. Chúng được đặt trong rọ, hoặc úp bằng những cái rổ đàng hoàng, như heo gà thật. Bên con heo đất hãy còn mấy cọng rau tươi, nơi gà vịt nhựa có dăm hạt gạo vung vãi. Hỏi. Một người bà con nói nhỏ với tôi: “Phải chăm sóc cẩn thận, ảnh về thấy heo gà không có thức ăn ảnh khóc”.

Trên đây, ba giai thoại tiêu biểu về mỗi thời kỳ Bùi Giáng.

Giai đoạn đầu, thuở liệm vợ bằng thịt gà sống đã phôi pha hoang đường, định mệnh chỉ ra ông sẽ là một hiện tượng kỳ vĩ, khác người. Một cái Ðiên đang hăm he cái Tỉnh. Một Muôn Ðiệu Tài Hoa sẽ vùi chôn người Bùi Giáng thường tình. Cuộc điêu linh sẽ gạn lọc, phiên dịch, phơi bày ông ra giữa trận đồ hoang vu nồng cháy của Phố Thị Ðìu Hiu, của Mù Sa Cố Quận. Sông ơi em bỏ sa mù/ Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau/… Một đời lận đận đo rồi đếm/ Mỏi gối người đi đứng lại ngồi.

Giai thoại thứ hai nhằm vào thời ông rời quê nhà – xứ Trung Việt nơi ông đã từng chăn dê; đã lùa bò vào đồi sim trái chín – để vào Sài Gòn; là khởi nguyên nơi ông mùa tinh hoa tụ hội: Thi tập Mưa Nguồn chào đời. Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.

Sau đó là những tuyệt phẩm: Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mùa Thu Thi Ca, Ðường Ði Trong Rừng, Sương Tỳ Hải, Sa Mạc Phát Tiết, Sa Mạc Trường Ca, Trăng Châu Thổ, Lễ Hội Tháng Ba, Sương Bình Nguyên, Biển Ðông Xe Cát, Lời Cố Quận, Ngày Tháng Ngao Du v.v… Ông dịch vô số tác giả từ Đông chí Tây, cổ kim; dịch rất tài hoa thông suốt, như Hoàng Tử Bé, Ngộ Nhận, Khung Cửa Hẹp, Kim Kiếm Ðiêu Linh, Hòa Âm Ðiền Dã v.v…

Sức điên, sức rong chơi, sức đọc, sức làm việc của Bùi Giáng là vô cùng tận. Ông là tượng trưng cho sự nhạy cảm, sự thông minh thoáng đạt, và sự bất định, bay bổng. Ðây là tai họa tự chính ông – tự đọa đày trực diện. Lúc này ông đã là một hấp lực kỳ vĩ với người đọc. Ðọc ông là si mê mơ màng, là lơ đãng tìm ra thuốc chữa cho một cần thiết thoát ly, đối kháng, chối từ, tái thẩm định. Là dìu dặt vào hương vị đắng cay mật ngọt thời hoang hóa hòn đạn làm nổ trái bom, điêu linh giữa tồn sinh phân hủy, giữa gươm đao đang thừa mà hụt hao nhân ái. Là chiến đấu thoát vượt cuộc khổn vây công bằng tự do; một xô bồ rừng rú tư tưởng; một trần gian xanh đen đến tiêu hao, phân ly chính mình. Bờ Lúa của Bùi Giáng:

Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con

Anh qua miền cao nguyên
Nhìn mây trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya cuốn gió

Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn rỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội

Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang.

Giai thoại thứ ba là hiển thị cuộc hí lộng đã dắt díu thi sĩ chơi với đồ nhựa vô tri. Ký gởi sự sống trên những “con-vật-không-có-sống-không-có-chết”, là lúc ông xấn tới tột đỉnh đất trời đổ lộn nguyên khê. Ông tỉnh táo trong một trạng thái đặt biệt của người điên. Ông sắp xếp cái Ðiên theo cách người tỉnh. Cái điên phần nào giúp ông siêu thoát. Nhưng cũng đặc biệt đọa đày cho ông là chính ông ý thức về cái điên của mình: Xuống sông xuống biển hãi hùng/ Mà không thể giết được linh hồn mình/ Trải bao nhiêu trận bất bình/ Cuồng điên tôi tự giết mình tôi chơi. Là tự hiểu: Tôi từ khởi sự cuồng điên/ Tôi từ uống rượu triền miên tháng ngày/ Hét la tháng rộng năm dài/ Tình yêu tiêu diệt từ ngoài tử sinh.

Khoảng đầu thập niên 70 có lần người ta đưa ông vào nhà thương Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy. Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh, tôi bèn hỏi một câu thường tình: “Nhà thương điên Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay hỉ!”. Ông trả lời tỉnh queo: “Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên”.

Có thể Bùi Giáng chẳng điên. Thiên địa nó tẩu hỏa nhập ma; chính thái cực lưỡng nghi nó lôi ông vào trận địa gây cấn tà huy. Hãy đọc một đoạn nhỏ trong Mùa Thu Thi Ca, sau khi nhà thơ đứt phèo phổi được tin Marilyn Monroe đang lộng-lẫy-một-tòa lại tự động chuyển-sang-từ-trần bên trời Tây:

"Mọi Nhỏ – Tại sao chị tự tử
Monroe – Tại vì chị là người da trắng. Huống hồ nữa là…
Mọi Nhỏ – Là sao huống nữa?
Monroe – Huống nữa là màu da trắng của chị còn trắng hơn tất cả màu da của mọi người da trắng khác.
Mọi Nhỏ – Thế nghĩa là màu da trắng của chị đã đạt quai nhai cảnh giới của lô hỏa thuần thanh thánh thần thiên tiên liên tồn tố bạch?
Monroe – Nhiên
Mọi Nhỏ – Sao gọi là liên tồn tố bạch?
Monroe – Tố bạch là tách bộ.
Mọi Nhỏ – Còn liên tồn? Cũng đồng nghĩa với tồn liên chăng?
Monroe – Nhiên”.

Sau, chết rồi mà em Monroe lại gặp tình cờ em Mọi Nhỏ. Mọi Nhỏ lúc này đã dấn mình một cách nhiệt huyết vào trung tâm điểm lửa đạn chiến tranh Việt Nam. Monroe ngậm ngùi hỏi:

"Monroe – Chị tự tử đã đành. Sao em cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử làm gì cho phí mất màu da bồ quân bánh mật của em như thế?
Mọi Nhỏ – Em đâu có tự tử. Chính là thật ra cái hòn đạn nó tự tử em.
Monroe – Hòn đạn nào như thế?
Mọi Nhỏ – Hòn đạn hoặc trái bom gì đấy. Nó nổ một trận tam bành. Nó tự tử mất em, đồng thời với cái truông đèo thơ mộng chiều hôm qua.
Monroe – Sao em không dời đi nơi nào ẩn trú, lại ở yên một chỗ mà chờ đợi đạn bom mà làm gì như thế?
Mọi Nhỏ – Dời đi nơi khác thì đồng thời phải dời cái truông đèo đi nơi khác. Em sức mấy mà làm cho xuể sự đó. Kể ra lúc bấy giờ em cũng định lặn xuống ở dưới đáy nước cái khe kia thì thật là bảo đảm nhưng không kịp. Cái bom nổ còn chớp nhoáng hơn cái ý định nảy ra trong đầu óc em.”

Ðâu phải con người không chuẩn bị kịp cho một trái bom nổ chớp nhoáng. Trong kiếp người chúng ta có những cái vô-cùng-không-kịp. Ðã vô cùng từ bỏ vườn cũ truông đèo không mang theo, trong hun hút máu xương. Ðã một phương trời gom nhặt từng phút sống, mà vắng mất nắm đất bên đàng chỗ cổng làng khe nước rẫy nương. Bây giờ ta hỏi lại thu/ Khu vườn lá ngọc sao thu phiêu bồng. Nơi hải giác thiên nhai, anh hay tôi, Em Mọi hay Ðêm Nguyệt Cầm Ca – Li, đã thức giấc nỗi lòng Nhật mộ hương quan hà xứ thị(3). Và đâu phải anh tự do hân hạnh được quyền có hay không cái tẩu hỏa nhập ma. Trái bom nó – tự – tử – em kia mà.

3. BÙI GIÁNG- TỀ THIÊN NGÔN NGỮ.

Thơ Bùi Giáng còn với người đọc bây giờ hay không? Với thời gian, hiện thực luôn bị xé rách, cầy xới, đào thải. Lỗi thời ngay khi còn là bây – giờ. Mỗi sát na, nghệ thuật mỗi chuyển dịch, thay áo, vì cái kỳ cùng tốc độ thế kỷ. Nhưng ngay hôm nay vẫn có một số đông người thưởng ngoạn say mê Bùi Giáng. Vẫn thấy lạ ý tưởng. Vẫn thấy mới ngôn ngữ. Vẫn nhận ra ở đó một thế giới giàu mộng tưởng, đôi khi sầm uất những linh cảm xuất thần. Người đọc rất đỗi hoang mang bay bổng, kỳ thú, dù có chỗ khó thể hiểu thấu đạt thơ Bùi Giáng, nhưng cảm được. Ðọc qua mắt, bằng đầu, với trái tim, từ hồn. Một hồn rất nhẹ, rất bơ vơ, rất rộng xanh của biển trời, và rất khắc nghiệt trí tuệ của thời đại. Từ đó, tiếp cận thơ Bùi Giáng người ta nghiêm chỉnh bâng khuâng, và được dịp rong chơi trong một não trạng bấy lâu khô hơn nhựa, cần thiết phải thích ứng bon chen.

Bùi Giáng không hề cực nhọc hô hào nhiệm vụ giáo dục quần chúng, văn dĩ tải đạo mà là những phóng mình đỉnh điểm tự do cho riêng người thưởng ngoạn. Nhưng rõ ràng Cái Ðẹp cần nó, và Ðạo không thể thiếu nó: tự do viết, tự do đọc, tự do tư tưởng.

Với Bùi Giáng, tuy Ðau, nhưng tất cả là Rỡn là Rong Chơi, trò chơi, cuộc chơi. Hí trường này bảng lảng mà không thiếu xót đau một quá trình khổn bách kiếp người. Nếu Ông Trời Xanh và Bà Trời Trắng nói được, nếu Như Lai và Như Lai Phu Nhân hạ cố, nếu Phó Như Lai và Phó Như Lai Ái Nữ mà trả lời được, sẽ trả lời mệt nghỉ, với những Ðiều Rỡn mà Bùi Giáng lót đường huyền ẩn như kinh. Khi còn nói Xử thế nhược đại mộng/ Hồ vi lao kỳ sinh(4) là còn so bì, chẳng là chơi. Ðiên chơi cho bớt điên đầu/ Điên đầu cho bớt điên rầu rĩ chơi/… Buồn vui ai biết đâu ngờ/ Nằm trong tử diệt nhớ giờ tái sinh… Rỡn, Chơi, có thể là hình thái sinh động nhất, rất mực nghiêm chỉnh cho một săn đuổi thực tế, làm chủ những trò ảo hóa mà tự nhiên xã hội cùng thiên nhiên kim cổ hãy còn tàn nhẫn giấu mặt.

Ðầu tiên là Bùi Giáng chơi ngôn ngữ thiên tài. Ông xài chữ một cách hào phóng, phung phí. Ông tự thân thoát khỏi ý nghĩa ngôn tự, ngữ cảnh nhào lộn, đu bay, không gốc rễ, như cảnh ráp nối người giữa không trung cuộc nhảy dù biểu diễn. Như cái pháo hoa xòe cánh trong đêm Hội, thể hiện cái rực rỡ rất đỗi đánh thức, lại rất đỗi phù du. Do bản thân sự ngao du rong ruổi trong sa mạc chữ nghĩa, trong thế giới ảo hóa này, thơ Bùi Giáng tạo cho người đọc một giá trị cảm thức sâu sắc, bàng hoàng, đẩy tới những hoài cảm, tưởng vọng mênh mông hơn chính ý lực của bài thơ, mà từ đầu tác giả muốn hàm gởi.

Bùi Giáng giàu ngôn ngữ như cát bãi biển. Mỗi chữ lại ẩn tàng nhiều mặt biểu hiện, đa dung mạo, đa nội lực. Nó có khả năng biểu thị rộng lớn cái Tận Cùng Ý Nghĩa, không phải Ðã – Nói, mà là Sẽ – Nói. Ðầu khe lá cỏ phai rồi/ Đã vang tiếng ngựa bên lời ước mong/… Em nhìn nhé giờ đây ta trở lại/ Nghe giậy hồng một mùa cũ tái sinh.

Ông dùng từ Hán Nôm đến mức tuyệt hảo, và đảo lộn, nói lái, trá hình, ngẫu hứng, ẩn dụ lại rất mực tài tình. Ðôi khi chữ dùng của ông tuồng vô nghĩa nhưng là một mật ngữ, mật mã. Ông phóng khoáng, rất coi thường hạng người mà ông cho rằng bọn hương Nho, Nho nguyện, mọt sách, bỏ câu chữ lên bàn cân xem bao lạng rồi mới dùng; ông khinh bỉ bọn viết lách cứ tả núi phải có đỉnh, tả con bò phải có hai lỗ tai. Vì chỗ tế nhị này mà rất nhiều người – hàm cả người làm thơ viết văn – đã dị ứng, đố kỵ, không hiểu, rồi không chịu được Bùi Giáng. Họ không muốn đọc, hoặc có đọc mà thiếu khả năng thẩm thấu thứ chữ nghĩa nhảy múa, bay lượn như gió, biến hóa của mây. Họ từ khước ông khi ông còn đi trên mặt đất. Họ cư xử với ông bằng thái độ trong “nội ô của nhà thương Biên Hòa”.

Chỉ hôm ông qua đời, đột nhiên – nhưng không đáng ngạc nhiên – tất cả môn phái “ngũ nhạc”, không kể chính tà, hữu chiêu vô chiêu, nhà văn thượng thư cùng nhà văn vỉa hè, đều tề tựu trước quan tài Bùi Giáng đầy đủ. Phàm nhân của hai chân lý đối nghịch bên này và bên kia Pyréneés đã may mắn có một dịp nhịp nhàng, thầm lặng nghiêng mình dưới chân Núi.

Toàn bộ thơ Bùi Giáng không có cái cách làm dáng trí thức, gây nhiêu khê đến rắc rối hoặc làm loãng cuộc chữ nghĩa đẹp đẽ trong tiếng Việt nghìn xưa vốn có. Ông là một nhà thơ triết nhân nhưng không hàm nghĩa thơ phải nêu chí cao trí cả như quan niệm cổ điển hằng mong đợi ở thi nhân. Trừ những thơ văn xuôi triết luận – và những bài thơ ông dịch tam bành qua một trận thấu triệt đến ngọn nguồn, mà khó nói ra cặn kẽ khi đương đầu cùng Heidegger, Rilke, Hoelderlin, Shakespeare, Neitzche… thơ Bùi Giáng hầu hết hình thành qua ngôn ngữ thông thường, xã hội càng ngày càng dùng nhiều hơn, rặt nôm, lại lắm khi những ngữ từ rất lem luốc bụi giang hồ. Nó đã nhẹ tênh, gần gũi, tự nhiên như nói chuyện, giản dị đầm ấm như ca dao. Nó rất kỳ cục, thường hằng, nhưng tinh tế. Nó rất đơn sơ như là một chứng minh cho kĩ thuật thượng thừa của Bùi Giáng.

Trong lịch sử văn học nước nhà ít thấy thi nhân nào – kể cả thi nhân ta rất mực mến yêu thờ phụng như Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tản Ðà – bày cuộc vui chơi chữ nghĩa đó đây một cách đơn giản nhưng thâm thúy, trù phú và thiết tha ngộ nghĩnh như Bùi Giáng. Ghì môi cơn mộng la đà/ Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng/ Nửa vời trăng rộng mông lung/ Đường xa nghi hoặc tháp tùng ni cô/… Tôi chấp nhận trăm lần trong thổn thức/ Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm/ Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt/ Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em.

Bùi Giáng có một não trạng khá đặc biệt; giật mình mơ hoang có thể mỗi cánh chuồn chuồn bay chiều; mỗi dặm hài hôm nay không còn động vang của Thúy Kiều; bắt gặp màu xanh trong sắc tím; nghe ra hơi thở của Lão Trang từ nghìn dặm phả về. Con nai vàng ngơ ngác đạp lên lá vàng khô? đã là một sự quá ư nặng nề, giày xéo đối với ông. Phải nhẹ hơn nữa kia. Nhẹ hơn cả hư không rỗng trống.

Vì cái não trạng vọng viễn phi biên giới kia mà khi tiếp cận với những Khổng Tử, Hoelderlin, Heidegger, Homère, Empédocle, Nerval, Whitman, Lão Tử, Nguyễn Du, Khuất Nguyên, Vương Bột… là cùng lúc Bùi Giáng phải chịu đựng một sự công phá chính tâm hồn mình. Ông băng băng dong ruổi trong mông lung tri tuệ rất mực uyên bác, sầm uất tưởng tượng, chói lọi cái bãi hoang vô thức từ im lìm bấy lâu giấc ngủ. Ông bất trắc dẫm lên một mặt đất rạn vỡ, bất nhẫn và vô tình trùng phùng một định mệnh tùy ngẫu, trói buộc. Lại bất trắc bị trùng vây bởi một trận đồ ngôn ngữ của thơ, của hồn thơ. Của Ðiên. Và của Ý Thức Về Cái Ðiên. Sự thể ấy làm ông rất đỗi sáng suốt trong điên đảo, chưa nói một đã lộ lồ mười, đi trên đường độc đã thấy muôn nghìn ngã ba ngã bảy, chưa kịp nhớ Mẫu Thân Phùng Khánh đã hoài Nam Phương Hoàng Hậu, vừa sớm mai tươi sáng bình sinh đã chợt tồn vọng cơn thảm đạm đêm Xiêm La Hy Lạp; thế rồi ông viết tràng giang, bằng cả vô thức, ông cuồng ngây tẩu hỏa dịch bừa sang thơ Việt cả những đoạn triết luận chằng chịt; ông khai triển Nguyễn Du bằng cách hợp lực làm thơ ký chung Nguyễn Du – Bùi-Trung-Niên-Thi-Sĩ.

Ông củng cố, ông dịch, ông chuyển tải tư tưởng bằng cách bá láp [chữ của Bùi Giáng] triệt hạ nguyên bản; khuynh đảo chữ nghĩa bằng cách lạ thường; biến những chữ cụ thể, những nghĩa đã chết trong sự củng cố để trở thành một hiện trình khác hơn, lại rất thơ, tinh diệu, biến hóa hơn. Ông làm giầu nghìn lần tiếng Việt. Một số nhà thơ, nhà sáng tác ở miền Nam trong nhiều năm, không chối bỏ rằng mình đã xài, đã từ lâu tự nhiên sâu thẳm bị ảnh hưởng cách dùng chữ nghĩa từ thiên tài Bùi Giáng.

Những địa danh quê hương – Trung Việt, Vĩnh Trinh, Quế Sơn, Bình Thạnh, Gò Vấp, Cửu Long, Cà Mau, Huế, Hà Tĩnh, Sài Gòn, Bạc Liêu, v.v… – đã hiện ra trong thơ Bùi Giáng rực rỡ gấm hoa, êm đềm màu núi, thổn thức như suối nguồn. Ðêm thưa Vĩ Dạ về gần/ Đã từ lâu lắm thiên thần nhớ em/… Ngồi đây tưởng nhớ xa xăm/ Nhớ nhung Lục Tỉnh trăng trằm Long Xuyên/ Ba mươi năm trước hiện tiền/ Hình về hiện tại bóng nghiêng nghiêng đầu.

Có lúc ông tiên tri giỡn chơi một cách lạ lùng – mà sau này lúc đời sống cô đơn ngột ngạt – ta đọc lại đến ứa nước mắt:

Tôi gọi Bình Dương là Bình Dưỡng
Dượng dì ơi thương nhớ cháu nhiều không
Tôi gọi Cần Thơ là Cần Thở
Cần Thơ ơi… cần thở đến bao giờ?

Bình? Dưỡng? Thở. Không hề là chơi chữ. Mà là tiếng kêu thống thiết của tâm linh trước một thế giới người đã kiệt cạn nhân tính, đánh tráo bình đẳng tự do; đã phơi phới những lừa mị, tàn nhẫn cùng nhau; đã tinh vi biến những đòi hỏi nhân sinh cần thiết thật sự trở thành trừu tượng trêu người trên khẩu hiệu giấy tờ.

Khác với tất cả thi nhân Đông Tây kim cổ, Bùi Giáng động đậy bay lượn với đủ sinh vật côn trùng. Chuồn chuồn châu chấu, con nai rừng chú dê nội, bươm bướm bò gà, cả… vi trùng sâu bọ cũng trùng trùng mộng ảo yêu thương. Ấy mộng đời đi với mộng rồi/ Trời ơi trăng rớt ngó trăng rơi/ Con ruồi con kiến con châu chấu/ Bươm bướm chuồn chuồn cũng thế thôi… Còn yêu mãi yêu và yêu nhau mãi/ Trần gian ôi cánh bướm với chuồn chuồn/ Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại/ Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.

Bùi Giáng dùng cả những loại chữ nghĩa “thép-đã-tôi” như hạ quyết tâm, chỉ tiêu, gia tăng, bổ sung, khu vực,… Hãy xem ông bùa phép vung vãi, lắm xót xa mà đậm đà hài hước: Ngày nay hạ quyết tâm rồi/ Về trần thế bốc lột người thế gian/ Tình yêu đã lỗi muôn vàn/ Chỉ còn bốc lột vạn ngàn máu tim… Mỗi năm mồng một ra giêng/ Con dẫn ông dạo suốt miền vực khu/ Khu này Bình Thạnh quận khu/ Khu trên Gò Vấp tuyệt trù lưu phong/ Dưới kia Bà Chiểu Lăng Ông/ Lên xe buýt thẳng dông chơi Sài Gòn.

Chính thế giới ngôn ngữ Bùi Giáng bày cuộc lập nhiên như thế nên khi đọc thơ ông ta không nên vô ích cưỡng lại, cho đẳng cấp suy nghĩ, cho trí tuệ làm việc, mà hãy thong dong trôi theo cái bá láp, tà tà thơ thẩn, rất mực vô tình như nhìn con tầu chiều không có bóng hình ai trên ấy. Ta sẽ bắt gặp một thần thái thanh tao hơn, một tổng thể bát ngát hơn, bởi vì đó chính là Thơ. Nó rộng rãi và thơ thới hình thành từ một thiên tài chung qui chỉ vì thơ mà điên, mà sống để điên cùng thơ.

4. BÙI GIÁNG –NGAO DU TƯ TƯỞNG.

Nói đến nhà thơ là nói tới rượu và mỹ nhân. Lý Bạch một đời sống chết cùng rượu. Ông làm thơ tặng vợ thú nhận một năm ba trăm sáu mươi ngày mình túy lúy như con nê hóa bùn: Tam bách lục thập nhật, Nhật nhật túy như nê (Tặng nội). Apollinaire một đời ngắn ngủi, nhưng đã rất nhiều nàng, cô Linda, nàng Annie Playden, Marie Laurencin, nàng Louise de Coligny Châtillon, Madeleine Pagès… Các nàng của thi nhân này duy chung một mẫu số: Tình Yêu. Nhưng ở Bùi Giáng là khác thể điệu, rất nhiều …mẫu số.

Ông có Mẫu Thân Phùng Khánh, mẹ Trí Hải /tuy hai mà một, Mẹ về đứng ở đầu sân/ Cuối cùng Mẹ bước vô ngần Mẹ đi/ có Kim Cương Kỳ Nữ, Nường Monroe, Gái Xiêm La, Gái Tô Châu, Hà Thanh Ca Sĩ /Ði về phố rộng mà ra/ Đi tu giản dị cô Hà Thanh ôi)/ có mấy em Da Đen Phi Châu, Em Mọi, Nàng Ðạm Tiên, Thúy Vân, Thúy Kiều, Bé Con Bình Thạnh, những chị miệt quê, Thiếm Năm Sáo xã Tân Phong/ Thiếm về chín suối long đong thế nào… Ôi người thục nữ Long Xuyên/ Tìm đâu thấy lại thuyền quyên một lần.

Những con người hữu hình, những em vô hình, những nàng sương bóng, Bây giờ em ở nơi đâu/ Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao/ đã mang mác thị trùng trong một Bùi Giáng tha thiết đến tê điếng, điên ngây. Một Bùi Giáng ngoại thế bằng hồn mà lòng đau kiếp người truyền động đến nguyên sơ. Bàng hoàng đuổi bắt một bản lai diện mục ẩn huyền. Mỗi Phùng Khánh Trí Hải, mỗi Kiều Nhi, mỗi Em Mọi là mỗi trận địa cuồng mê đến đằm đìa phủ chụp người thơ trong bàng hoàng nương náu. Bàng hoàng thể phách, mộng hoài đêm Da Ðen tới Rú Rừng Da Trắng, Apollinaire tìm người yêu có thật, dấn mình trong một diễm ảo nhu cầu. Bùi Giáng hư vô hóa tất cả trong miên trường vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương

Mỹ nhân? Cái Ðẹp? Lý Tưởng? Một Phương? Hãy tìm chỗ Mù Sa Cố Quận? Ðảo lên nguyên khê, lộn về phố thị, chỗ sân ga bến tầu, trên chiếc giường hoan lạc, giữa bàn hội nghị, lúc ngâm vịnh, khi nhảy disco; ở đâu? nơi nào? trong Cõi Tồn Sinh rất nhiều Ðánh Mất này một đúng nghĩa Lý tưởng? rõ mặt Cái Ðẹp? Vả, trong tuyệt trù ngóng vọng còn chăng một thiên nhất phương để mà ký gởi? mà vọng mỹ nhân hề?…Em còn ở với sơn hà/ Anh còn mất hút gần xa mất hoài… Hỏi rằng người ở quê đâu/ Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà.

Tuy nhiên, với những người con yêu dấu, cuộc bám trụ mang nặng tổn thất này xem ra vẫn là một giềng mối đạo lý mãi mãi tươi xanh đạo lý. Nó hoài hoài thơ mộng khi quê nhà đã là một hiện trường có thật – trần trụi từ khi tôi ở truồng chào đời đến lúc tôi không còn khả năng bận mỗi bộ áo quần để chui vô quan tài – là thế; không nên giải thích nữa, tuy chưa hóa đá nhưng quanh tôi vốn vậy; nên diễn dịch nó bằng cách nói đương nhiên cạn cợt, mà tất nhiên sâu thẳm, như nói về một cục gạch, về mỗi bếp lò. Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.

Một câu hỏi cần thiết tôi muốn hỏi: “Quê nhà Bùi Giáng nơi đâu?” Ðã hẳn là quê nhà ông “thưa rằng” đó không? Bùi Giáng chưa hề định nghĩa một quê nhà rộng hẹp, thước tất, kiểu Quốc văn giáo khoa thư; mặc dù ông từng tha thiết yêu, và khẩn thiết, kêu gọi vi trùng, chuồn chuồn châu chấu, tập-thể-bò-dê trong đồi sim trái chín hãy rộng lòng để cùng ông hòa mình cuộc thương yêu.


Ðã không hề giam mình trong định nghĩa, lại càng không giam mình trên một mặt đất dù nó khá mênh mông, vậy Bùi Giáng có một quê nhà nào trong cái vũ trụ mà ông đọa đày khắc khoải gọi tên?

Có thể, hiển nhiên là có thể thôi, Bùi Giáng có một mái nhà trong một quê hương rộng dài: Cõi Thơ. Trên quê hương không chiều kích không gian và thời gian đó, Bùi Giáng là đứa con trung thành rất mực dưới mái nhà Thơ, và là một tay kịch liệt tung hoành, mặc tình dâng hiến, thỏa dạ cuồng si trong quê thương Thơ. Ở đó ông trùng phùng những công dân thế giới, những con người ưu tú từ nhân loại cổ kim.Hãy đọc một trong những bài thơ sau cùng của ông:

Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu tiên.
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau
Uống xong ly rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời

Em còn ở lại vui chơi
Suốt năm suốt tháng suốt nơi lan tràn
Riêng anh về suốt suối vàng
Trùng phùng Lý Bạch nghênh ngang Tản Ðà
Em còn ở với sơn hà
Anh còn mất hút gần xa mất hoài

(Uống rượu)

Thường tình thì hẹn là để gặp lại, nhưng Bùi Giáng hẹn là để “quên nhau muôn đời”. Lời di chúc cho Em trước một Ra Ði. Nó buồn tênh nhưng sáng ngời cái khí phách thanh sạch, ngời sáng của một Thi Sĩ. Giã từ phương này trùng phùng được Lý Bạch Tản Ðà đầu kia. Uống ly rượu cuối cùng trong thần thái đầu tiên. Không hề là Vĩnh Biệt, chỉ có Ra Ði, là Ðược Về.

Ðặt biệt ở đây mọi hình tượng hiện tồn vọng viễn chỉ tinh mật góp lại một từ, đó là Em. Không phải Bùi Giáng hôm nay mệt mỏi, hóa ra hiền từ, không còn bay phá trong thế giới chữ nghĩa muôn điệu của ông, mà Em chỉ là Một Tiếng Kêu. Là Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim(5) Em là Ai? Người ta đã từng gọi Tự Do là Mi kia mà. Tây cầm cung bậc xô ngang/ Nửa chừng dâu biển lấp ngàn ước mong. Tuy nhiên Anh suốt suối vàng, Vẫn mong Em còn suốt cõi trần vui chơi. Một chia biệt buồn bã vẫn tràn đầy tự nhiên, hò hẹn, hy vọng; một cuộc đùa vui trong sáng, tự tại. Mây rừng tháng chạp bổ sung/ Mộng đi theo mộng cuối cùng cho mai.

***

Sau cùng, một điều nên đề cập tới – không thể tách rời khi viết về một Bùi Giáng thơ – đó là phong cách đặc biệt của ông trong khảo luận, dịch thuật và những bài tạp luận. Vì đây cũng chính là thơ.

Bùi Giáng đề cập đến tất thảy các nguồn triết học Đông Tây cổ kim (hàng trăm thi sĩ triết nhân nhà tư tưởng đã được đề cập), ông ca ngợi, ùng lúc cũng phê phán tất thảy từ Khổng, Trang, Lão, đến Socrate, Platon, Heidegger, Kant, Sartre… nhưng cái nhìn của ông – qua văn xuôi – là thơ, lẫn thơ mộng, lẫn mộng mị. Do vậy ta nên đọc Búi Giáng theo cách chịu chơi, như một thưởng ngoạn lấy cái thi vị.

Trong bài Ðạo Ðức Kinh ông đề cập tới Ðạo như vầy: “Không tin tưởng vào bất cứ gì mà vẫn yêu đời, ấy là đạo vậy. Tin tưởng tất cả mà vẫn chán đời, ấy là đạo vậy… Không đi lính mà mặc áo nhà binh ấy là đạo vậy. Ði tu mà cứ ăn mặn hoài, ấy là đạo vậy…”

Trong Ði Vào Cõi Thơ là thế này: “Thế nghĩa là gì? Có một cõi và một cuộc đi. Cuộc đi có nhiều thể thái. Có thể đi theo lối chu du của ông Khổng Tử. Có thể đi theo lối ngồi im không rục rịch suốt bao nhiêu diên trường tuế nguyệt dưới gốc cây bồ đề theo lối Như Lai. Cũng có thể đi theo lối anh lùa bò vào đồi sim trái chín”…

Trong Ðường Ði Trong Rừng, Bùi Giáng làm thơ lý luận về học thuật một thôi rồi quay ra “tả cảnh” các triết gia thi sĩ thế này: “Ôi đìu hiu con chim nhạn Hoelderlin! Ôi con ngỗng trời bất tuyệt Nguyễn Du! Con hạc vàng huyền ảo Nervar! Con sư tử hống thời phương thảo lục Nietzsche! Con tượng vương hồi xứ lạc hoa hồng Heidegger! Con du hí thần thông tam muội tận Shakespeare! Con phiêu bồng hồng nhạn tuyết trung khan Homer Sophocles! ôi con gà rừng con nai rú!…”.


Những phạm trù tư tưởng được ông đùa chơi đề cập, thường là thông qua chiều kích của ngôn ngữ hình tượng, biểu trưng, hơn là Ðáp – Giải bằng Lý. Ông bày ra trên bàn tiệc hình nhi thượng là những cô em phương trời, ông phó Như Lai, bà Trời Trắng; bằng một kỹ thuật dựng hình lổn ngổn, lý luận không biết đâu là Hỏi ra Ðáp vào. Bởi, bày ra câu hỏi cũng chính là một Trả Lời. Trả lời chính là một nan vấn, khẩn thiết một khởi đầu cho một tra vấn mới. Giải mã được: “Vì sao hôm nay đã đánh mất Nguyên Sơ” có nghĩa là “vì sao Sơ Nguyên không là hôm nay”, như thế là ta đã đẩy đưa một sự vụ thật ra đơn giản trở thành ảm đạm rối rắm; ngay lúc ấy ta đắm chìm trong một tưởng mộng sơ nguyên khi đang sống trên một mặt đất trầm trọng với đạn bom thương nhớ, Tại ni hằng thể là ta tự tình. Dưới mái lợp ngàn ngàn tinh tú này luôn hồi vọng những tiếng kêu xanh đen, lạc loài. Và bao nhiêu lời giải đáp là ngần ấy nhân lên những nan vấn kế thừa. Vậy thì, hãy nghe bằng vô ngôn thông vậy.

***

Vì sao có sự thể vừa tinh mật vừa phồn tạp trong một Bùi Giáng. Chúng ta nên hiểu thêm một con người khác trong ông. Ðó là một Bùi Giáng thông tuệ hãy còn lưu dấu sâu xa cái gốc gác thánh thiện một trẻ thơ lớn lên từ luống cày nương rẫy. Cái thật thà hài thơ ấy đã trở thành bản chất, đã nằm trong bịt bùng tầng tầng vùi lấp của cõi thời gian đời người. Nó được nén chặt, đè kín, được lay-out kỹ càng nơi vô thức nhưng nó có sức bật dậy và phóng bủa mông lung khi được thực tại click vào nó.

Nó đã giúp ông bao năm lang thang giữa phố thị mà vẫn vô tình gắn chặt với hương đồng cỏ nội, với nương rẫy vườn rau lối ngõ quê mùa – cả thơ văn lẫn con người. Phát biểu của ông lắm khi dân dã thật thà, thể hiện một cái Ðẹp trần trụi, khật khùng, thô, không hào nhoáng son phết. Ngôn ngữ Bùi Giáng là mặt bằng của tranh lụa, của tranh sơn dầu, của cả hốc hang một tượng điêu khắc.

Bùi Giáng cũng là người rất mực tình cảm, rất mực thiết tha với bất cứ cái đẹp nào. Sống ở đâu ông cũng lưu lại một nỗi nhớ, một kỷ niệm, một nhắc nhở. Nhưng cái nhớ ấy không cạn cợt mà đã hóa thân là mơ màng, tưởng vọng, bay bổng tiếng kêu chung của phận người. Ông điên giữa phố thị nhưng Mỹ Tho Sài Gòn vẫn là nơi thuận tiện ngắm trời mây, dễ dàng hà tiện, dễ dàng bê bối, không cần thiết nhân danh tháng ngày để tiết kiệm thời gian. Ở đời sáng uống cà phê/ Quán trong hẻm nhỏ như quê quán nhà/ Ngoại ô thành phố phồn hoa/ Ấy Sài Gòn ấy thiết tha bấy chầy.

Tóm lại, cuộc phiêu bạt của Bùi Giáng qua cuộc đời này là hình ảnh của một thiên thần trên chốn lưu đày. Nơi đây ông đã tự thân bày cuộc ngao du, minh triết hí lộng. Ðể chi vậy? Ðể viên mãn: “Cuộc – đời – ờ – nơi – tạm – cư” ; và đánh trả cái nhân danh thiên đàng, lãnh địa của mọi nguồn gốc lưu đày.

Bùi Giáng đã có một đời thơ năm mươi năm sáng tác; hơn hai mươi năm ông đã cùng các nhà thơ lỗi lạc Phương Nam mở ra một vận hội Muôn Màu cho Văn Hóa Phương Nam. Nhưng nhìn ở bất cứ gốc cạnh nào ông mãi mãi là một thi hào riêng Cõi, độc lập, một bát ngát tượng đài. Do đó, tôi thấy không nên – không thể qui kết định đặt Bùi Giáng vào một trường phái khuynh hướng, một tổ chức nào cả. Mọi nhãn hiệu có lẽ chỉ vô tình khoanh tròn, thu hẹp, công thức hóa cái thế giới Thi Ca dài rộng mênh mông của Bùi Giáng.

LỜI TẠM BIỆT

Anh Bùi Giáng! Hôm nay anh đã thật sự có ngày tháng ngao du. Anh để lại đây một tượng đài trong lòng người đọc giữa bạn bè anh em; một tượng đài không cần thiết phải xây bằng bê-tông cốt thép mới đời đời bền vững.

Hôm kia tôi ghé Bình Thạnh để thắp anh một nén nhang. Con đường mưa, đầy vườn lá rụng. Tôi nhớ anh Những Ngày. Ngày ở Ðại học Vạn Hạnh. Ngày ngồi cà phê Nắng Mới. Ngày của những Ðêm-Ðen Giữa-Ban-Ngày. Mỗi chúng ta bị thời gian nghiền nát mỗi cách, nhưng anh luôn là một khuôn mẫu tự nghiến nát đặc biệt. Tôi rất khoái cuộc tự hủy mang tính nhiệm mầu tỏa bóng của anh.

Tương lai sẽ nói gì? Đó là quyền của tương lai. Nhưng tương lai sẽ có một thái độ rất trung thực, thanh sạch, và tích cực lưu giữ những gì là tốt đẹp Hôm Nay. Chúng ta không ích kỷ kỳ vọng tương lai nhớ mình, nhưng Ngày Mai sẽ có trách nhiệm lưu giữ anh, soi sáng những gì anh để lại. Chúng ta chưa hề đi vào những con đường hầm không có đầu kia.

Sau cùng, tôi nghiêng mình xin lỗi anh vì đã quá ngớ ngẩn bàn luận về thơ anh, điều mà anh rất ghét kỵ. Anh chẳng bảo: “Thơ chẳng có gì để bàn ra tán vào. Muốn, hãy cứ làm một bài thơ tương phùng nọ để đáp vào tận địa một bài thơ kia”.

Nếu anh trách giận, tôi sẽ cười như niềm vui nhắc bảo và đầm ấm thưa rằng: “Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm/ Tường vôi lá cỏ lim dim vô cùng”.

Mong thượng giới hãy dành một suất tự do để Con Người Chịu Chơi được tiếp tục cuộc tràn lan phiêu bồng.

Ghi Chú


(1) Thơ văn Bùi Giáng được trích từ Mưa Nguồn, Ðường Ði Trong Rừng, Mùa Thu Thi Ca, Lễ Hội Tháng Ba, Sa Mạc Trường Ca, Biển Ðông Xe Cát, Trăng Châu Thổ. Ngày Tháng Ngao Du, Rong Rêu, Ðêm Ngắm Trăng, và những bài thơ sau cùng chưa in thành thi tập.

(2) Trên mặt đất này đâu đâu cũng là dòng Mịch La.

(3) Lúc trời chiều đứng ngắm cảnh tự hỏi đâu là quê nhà – Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu.

(4) Sống ở trên đời như giấc mộng lớn, Làm chi cho vất vả thân mình – Xuân nhật túy khởi ngôn chí, Lý Bạch

(4) Sống ở trên đời như giấc mộng lớn, Làm chi cho vất vả thân mình – Xuân nhật túy khởi ngôn chí, Lý Bạch

(5) Một tiếng sóng lạnh tiễn đưa kim cổ - Nguyễn Du.

Thứ Ba, 20 tháng 7, 2010

Bùi Giáng - L'Adieu

(Bài viết không rõ tác giả, được chép lại từ Blog của Hoa Sen Vang)
Từ trước đến nay có rất nhiều người đặt câu hỏi: Bùi Giáng có phải là một người bị mắc bệnh điên hay không? Cũng đã có rất nhiều bài viết về Bùi Giáng đề cập đến vấn đề này, trong đó một số tác giả khẳng định Bùi Giáng là người điên trong khi một số khác lại nói ngược lại.
Trong một bài viết, tác giả Trần Đới khẳng định:
- "Một sự thực là Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tỉnh lại và hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó... Bây giờ người thi sĩ này chỉ còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống".
Một người khác, ông Nhất Thanh, thì viết như thế này:
- "Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ là một ông già bình thường nhất, dễ thương nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất cả chúng ta".
Bùi Giáng hiển nhiên cũng biết việc nhiều người tranh cãi nhau rằng ông có điên hay là không điên. Ông đã tự viết về mình như sau: "Nó điên? Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên. Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ điên, thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa nay vậy".
Đọc đoạn đó của ông người ta thấy hơi bối rối. Vậy thì Bùi Giáng là người như thế nào? Ông là một người điên hay là một người bình thường? Nhưng có một sự thật không thể chối cãi: Bùi Giáng đã từng là bệnh nhân của bệnh viện tâm thần hẳn hoi. Năm 1969 là năm ông in được nhiều tác phẩm nhất nhưng cũng là năm mà ông vấp phải cú sốc lớn thứ hai trong đời. Bùi Giáng bị hỏa hoạn thiêu cháy hết toàn bộ sách vở quý hiếm, một số tranh và đặc biệt nhiều bản thảo hoàn chỉnh mà ông rất tâm đắc. Con người hồn nhiên của Bùi Giáng có lẽ không bị sốc vì chuyện này, nhưng sau đó người thân của ông phải đưa ông vào Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa để chữa trị.
Cung Tích Biền kể: "Khoảng đầu thập niên 70 có lẽ người ta đưa ông vào nhà thương điên Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy. Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh. Bèn hỏi một câu thường tình:
-"Nhà thương Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay nhỉ!".
Ông trả lời tỉnh queo:
-"Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên".
Nghe Bùi Giáng nói như thế, hẳn người ta cảm thấy ngờ ngợ rằng những việc làm không giống ai của ông là do ông muốn thế chứ chẳng phải do bệnh tật gì gây ra. Nhà văn Đào Hiếu viết:
-"Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu hạn, là phi lý, là chốn lưu đày, là cõi phù du là cái mớ bòng bong vớ vẩn...".
Chung quanh vấn đề Bùi Giáng, có hai điều cần nêu ra sau đây. Một là, không phải chỉ có mình Bùi Giáng vừa có những biểu hiện tâm thần vừa làm thơ viết văn. Có rất nhiều bệnh nhân của các bệnh viện tâm thần là nhà văn, nhà thơ, họa sĩ... Họ có thể vẽ tranh, sáng tác văn thơ ngay trong thời gian điều trị bệnh. Có điều họ không có sẵn cái gốc tài năng xuất chúng như Bùi Giáng nên không trở thành hiện tượng đặc biệt mà thôi.
Hai là, những hành vi khác người của Bùi Giáng đã được các nhà chuyên môn xác định có nguyên nhân bệnh lý hẳn hoi chứ không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân sinh quan gì cả. Có điều, vì ta thấy cái điên của ông cũng hơi khác người nên cảm thấy ngờ ngợ. Nhưng dần dần ta sẽ được rõ hơn khi xem xét đến các vấn đề khác. Cần biết rằng, không riêng gì Bùi Giáng mà nhiều bệnh nhân tâm thần khác, tiếp xúc với họ đôi khi ta cũng dễ nhầm lẫn vì thấy họ có vẻ thật thật giả giả, nửa điên nửa tỉnh. Cho nên chúng ta không thể kết luận được về tình trạng của họ mà phải là các nhà chuyên môn.
Không ai biết Bùi Giáng, đọc Bùi Giáng mà không yêu mến ông. Đó là sự thật. Gọi ông là người tỉnh cũng được, điên cũng được, dù là tỉnh hay điên ông cũng đã để lại cho đời những vần thơ mênh mang trác tuyệt. Ông mở ra một thế giới thi ca cao vời, ảo diệu. Nói như một người từng gần gũi với ông: "Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi là nếu có được thêm ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta còn được lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu". Quả đúng như vậy !

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

Guillaume Apollinaire
*
Bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng
LỜI VĨNH BIỆT
Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...

Thứ Năm, 10 tháng 6, 2010

Andrei Voznesensky - Doctor Zhivago - Triệu đóa hoa hồng

Andrei Voznesensky - một trong những nhà thơ nổi tiếng của Nga thời kỳ Xô Viết - đã ra đi thanh thản tại nhà riêng ở Moscow vào ngày 1-6-2010, thọ 77 tuổi.
Andrei Voznesensky được biết đến với những bài thơ có giai điệu đặc sắc, rất được các nhà phê bình ca ngợi trong thời kỳ Xô Viết. Nhà văn từng giành được giải Nobel văn chương và là tác giả của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Doctor Zhivago (Bác sĩ Zhivago) Boris Pasternak được coi là người thầy thông thái cũng như nguồn cảm hứng thi ca của Andrei Voznesensky.

Những tập thơ nổi tiếng của ông bao gồm The Triangular Pear, Antiworlds, Stained-glass Master, Violoncello Oakleaf, Videoms and Fortune Telling by the Book. Một số tác phẩm của Andrei Voznesensky đã được phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng, trong đó có tác phẩm Triệu đóa hồng rất quen thuộc với thính giả Việt Nam. Ca khúc này được chuyển thể từ bài thơ Million of Scarlet Roses mà ông viết để tặng cho ca sĩ nổi tiếng Alla Pugacheva của Liên Xô vào năm 1984.

Ngoài ra tác phẩm Antimiry của ông trở thành một vở kịch nổi tiếng thế giới được trình diễn tại nhà hát Taganka năm 1965. Tác phẩm Juno and Avos của ông cũng đã được chuyển thể thành vở nhạc kịch rock opera nói về cuộc đời và cái chết của Nikolay Rezanov và được biểu diễn trên sân khấu Lenkom.

Trong suốt những năm 60, ông thường xuyên qua Châu Âu và Mỹ để đọc thơ cùng với người bạn, nhà thơ Yevgeny Yevtushenko của mình và từng gặp gỡ với các nhân vật nổi tiếng như Allen Ginsberg, Arthur Miller, Marilyn Monroe và Robert Kennedy. Năm 1976 tên của ông được đặt tên cho một tiểu hành tinh (3723 Voznesenskij) mà nhà thiên văn học Xô Viết Nikolai Stepanovich Chernykh khám phá ra. Năm 1978, Andrei Voznesensky được tặng giải thưởng Nhà nước Liên Xô. Năm 2008, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev cũng đã trao giải thưởng nhà nước dành cho ông.

Andrei Voznesensky còn là thành viên danh dự của hàng chục viện hàn lâm trên thế giới, trong số đó có Viện Hàn lâm Giáo dục Nga, Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Mỹ, Viện Hàn lâm Nghệ thuật Bavaria, Viện Hàn lâm Goncourt và nhiều viện hàn lâm khác.

NGHI XUÂN (Theo BBC News, AP, Wikipedia)

Thứ Ba, 11 tháng 5, 2010

Người chiến thắng

Bài này được trích đăng từ Trang Web Viet Nam Gia Pha.

Lúc bấy giờ là đêm ngày 8 tháng 4 năm 1865, Đại tướng Robert Lee, thống lãnh quân đội miền Nam, cùng Ban Tham Mưu ngừng chân đặt bản doanh bộ chỉ huy trong một cánh rừng gần toà thị xã Appomattox, thuộc tiểu bang Virginia. Sáu ngày liên tiếp trước đó đạo quân miền Nam đã đi không ngừng nghỉ tiến về phía Tây hướng về dãy núi Blue Ridge, nơi tướng Lee từng tuyên bố ông có thể cầm cự chiến đấu ít nhất là 20 năm. Nhưng đêm nay khi tướng Lee và Bộ Tham Mưu mệt mỏi của ông dừng quân tại Appomattox thì đạo quân miền Nam đang bị quân đội miền Bắc bao vây, lương thực cạn, hy vọng tiếp tế không có, hy vọng tăng viện cũng không. Xa xa tiếng đại bác xé màn đêm dội về... Tất cả hy vọng của tướng Lee lúc này chỉ còn đặt vào một vị tướng trẻ gan dạ, John Gordon. Vị tướng này sáng sớm hôm sau sẽ tiến quân chọc thủng phòng tuyến bao vây của quân đội miền Bắc.

Cách đó không xa, viên sĩ quan phụ tá của tướng Grant, thống lãnh quân đội miền Bắc, bước vào phòng riêng của tướng Grant để đánh thức ông dậy. Người sĩ quan hầu cận vội mang đến tướng Grant một tách cà phê nóng hổi. Tách cà phê dẫu có giúp nhẹ đi cơn nhức đầu nhưng không làm giảm bớt mối căng thẳng lo âu của tướng Grant. Sau cùng tướng Grant kéo ghế ngồi, và khởi sự thảo bức thư trả lời thư mới nhận được từ tướng Robert Lee. “Tôi rất muốn hoà”, tướng Grant viết, “và mong muốn kết thúc cuộc chiến mà không phải tổn thất thêm một nhân mạng nào nữa. Nhưng cuộc hội kiến do Đại Tướng đề nghị vào 10 giờ sáng hôm nay không có một lợi ích nào cụ thể và tôi không có thẩm quyền quyết định hoà hay chiến.” Nhưng bức thư của tướng Grant chưa kịp đến tay tướng Lee, tiếng súng đã lại bắt đầu nổ.

5 giờ sáng, sương mù còn bao phủ rặng đồi bên kia Appomattox. Loạt đạn đầu tiên xé màn sương, đánh thức sáng chủ nhật 9/Apr/1865, tiếp theo là tiếng thét tiến quân của quân đội miền nam. Từng đợt tấn công của tướng Gordon đã đánh bật tuyến phòng thủ đầu của quân miền Bắc, chiếm nhiều cỗ súng đại bác, đánh bạt hai bên mở rộng đường tiến quân, và ào ạt tiến lên đồi. Nhưng từ phiá bên kia đồi, quân miền Nam đã đụng phải một bức tường dày đặc, kéo dài hơn 2 dặm, cuả hai đơn vị bộ binh quân đội miền Bắc. Và ép từ phiá sau là hai đơn vị bộ binh khác của quân miền Bắc tiến lên. Quân miền Nam bị ép vào giữa, tiến không được, lui cũng không xong, và “chém vè” cũng không được.

Chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ sau, tướng Lee được tin khấp báo của tướng Gordon “Quân sĩ của tôi đã chiến đấu hết mình. Trình Đại Tướng tôi không làm gì hơn được nữa!”. Lập tức tướng Lee triệu tập Ban Tham Mưu thâu hẹp để quyết định hoà hay chiến. Tướng Lee nói với các tướng bao quanh: “Giờ đây tôi chẳng còn làm gì hơn là đến trình diện và đầu hàng trước tướng Grant”.

Nơi được chọn để nghị hoà là một căn nhà nhỏ mái ngói thuộc Appomattox, một thị xã hẻo lánh nằm vào phiá Nam tiểu bang Virginia. Có độ chừng 20 căn phố, lèo tèo vài cửa hàng nhỏ, một lữ quán và toà thị xã. Khi mặt trời leo lên cao là lúc tướng Lee đã đến điểm hẹn, ông bước theo sự hướng dẫn của vị sĩ quan tuỳ viên và một sĩ quan tham mưu thuộc Bộ Tham Mưu của Tướng Grant. Tướng Lee, uy nghi trong bộ binh phục đại lễ, hông đeo trường kiếm, ngồi xuống cạnh một chiếc bàn gỗ nhỏ. Giờ đây ông đã có mặt ngay trong lòng đất đối phương.

Tướng Ulysses S. Grant, tư lệnh Bắc quân và tướng Robert Lee, tư lệnh Nam quân.

Vào khoảng nửa tiếng sau, tiếng giày nện trên sàn gỗ và tướng Grant bước vào. Khác hẳn với tướng Lee, tướng Grant không đeo kiếm, không mặc quân phục, quần và đôi ủng lấm đầy bùn. Theo yêu cầu của tướng Lee, tướng Grant đích thân thảo bản văn kiện chính thức đầu hàng của quân đội liên hiệp miền Nam và sau tự tay trao cho tướng Lee xem lại. Chậm rãi, từ tốn, tướng Lee rút cặp kiếng đeo mắt, lấy khăn lau kỹ lưỡng, đeo kính lên và chăm chú đọc.

“….Vũ khí, đại bác và các tài sản công phải được liệt kê, sắp xếp và giao nộp cho một viên sĩ quan do tôi chỉ định. Những vũ khí này sẽ không gồm có vũ khí cá nhân của các sĩ quan, cũng như ngựa và tư trang của họ. Sau khi hoàn tất, mọi sĩ quan và binh sĩ sẽ được phép trở về nguyên quán, và sẽ không bị quấy nhiễu bởi các cơ quan cầm quyền chừng nào họ tôn trọng lệnh đầu hàng và tuân theo luật lệ địa phương nơi họ cư ngụ.”

Lần đầu tiên trong buổi hội kiến, gương mặt của tướng Lee tươi hẳn. Như vậy có nghĩa là sĩ quan và binh sĩ dưới quyền của ông sẽ không bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Có nghĩa là họ sẽ không bị đem ra bêu riếu diễn hành hạ nhục trên các đường phố. Có nghĩa là họ sẽ không bị mang ra toà truy tố về tội phản loạn.

Tướng Lee nói, “Thưa Đại Tướng, những điều kiện đầu hàng thế này sẽ có ảnh hưởng rất tốt với quân đội của tôi.” Và tướng Lee nói tiếp, “Nhưng thưa ngài, trong quân đội miền Nam cuả tôi, ngay cả binh sĩ khi gia nhập cũng mang theo ngựa của họ vào quân đội.”

Tướng Grant nói ông sẽ không thay đổi gì trong văn kiện đầu hàng, nhưng sẽ ra khẩu lệnh cho phép mọi binh sĩ miền Nam được phép mang ngưạ và lừa về quê quán để sử dụng trong việc trồng trọt ở các nông trại.

Trận đánh quyết định tại Five Forks (Tháng Tư 1865)
Tướng Lee còn thêm một lời yêu cầu nữa. Ông trình bày cho tướng Grant biết ông còn giam giữ hơn một ngàn tù binh quân đội miền Bắc nhưng không có lương thực cung cấp cho họ và ngay chính quân đội của ông cũng không còn lương thực. Không ngập ngừng, tướng Grant đề nghị sẽ ra lệnh xuất kho cấp ngay khẩu phần cho hơn 25,000 quân sĩ của quân đội liên hiệp miền Nam.

Tướng Grant hỏi, “Như vậy, đủ chưa?”

“Thưa, quá đủ, quá đủ, thưa đại tướng.” Tướng Lee trả lời.

Tướng Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của tướng Grant, bắt tay tướng Grant, nghiêng mình chào tất cả mọi người có mặt và bước ra khỏi phòng họp.

Tướng Grant và ban sĩ quan tham mưu đã đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà, nơi đôi bên nghị hoà. Khi ngựa tướng Lee rảo bước đi qua, cặp mắt của hai vị tướng quân chạm nhau trong giây phút, họ đồng ngả nón chào nhau. Trên bao lơn xung quanh tướng Grant và suốt trong sân trước căn nhà lịch sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đều đưa tay chào kính vị tướng bại trận quân đội liên hiệp miền Nam.

Tin đồn đầu hàng của tướng Lee tràn lan mau chóng như thuốc súng. Khắp nơi binh sĩ miền Bắc reo mừng. Họ liệng lên không trung mũ nón, giày, bao đạn, áo hay bất cứ vật gì có thể ném tung lên được. Họ ôm nhau, hôn nhau. Súng ống các loại, kể cả đại bác bắt đầu nổ. Thế nhưng tướng Grant nhanh chóng ra lệnh ngưng ngay tức khắc những biểu lộ nỗi vui mừng của binh sĩ miền Bắc. “Rồi sẽ có ngày mừng chiến thắng”, tướng Grant giải thích, “Nhưng không phải là ngày hôm nay. Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ”. Điều quan trọng với tướng Grant là phải làm sao để thắng trận, đồng thời cũng phải gìn giữ cho bằng được sự toàn vẹn tình cảm giữa những người cùng trong cộng đồng dân tộc Hoa Kỳ.

4:30 chiều ngày 9 tháng 4, 1865, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh tại Hoa Thịnh Đốn nhận được một điện văn ngắn ngủi của tướng Grant, “Tướng Lee đã buông súng đầu hàng quân đội miền Nam theo những điều kiện do tôi ấn định.”

Cách đó không bao xa, tướng Lee cỡi ngưạ trở về bản doanh của mình. Dọc hai bên đường, binh sĩ miền Nam nghiêm chào vị tướng lãnh mà họ tôn sùng. Nhiều người bật khóc, phủ phục bên đường. Tướng Lee cũng không cầm được nước mắt. Về đến đại bản doanh, trước mặt sĩ quan và binh sĩ đứng chờ, tướng Lee hướng về họ và nói: ”Tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được. Và nay lòng tôi nặng chĩu và không thể nói gì hơn”.

Bước đi vài bước, ông dừng lại và thêm: “Các anh em hãy trở về quê quán. Và nếu các ngươi sống được như những công dân tốt như các anh em đã từng chiến đầu như các chiến sĩ thì các ngươi sẽ thành công rồi. Và tôi sẽ luôn luôn hãnh diện vì các anh em.” Và tướng Lee biến mình vào trong lều vải của mình.

Điều kiện đầu hàng được hai tướng Lee và Grant ký kết tại Appomattox ngày 9 tháng 4, 1865 thì 3 ngày sau, ngày 12 tháng 4 mới là ngày quân liên hiệp miền Nam chính thức buông súng đầu hàng.

Hai đạo quân dàn đôi bên con đường chạy theo phiá Đông rừng Appomattox. Chỉ huy cánh quân miền Bắc và điều khiển buổi lễ là tướng Chamberlain, nguyên là một giáo sư đại học, Huy Chương Danh Dự, hai lần bị thương trên chiến trường.

Tướng Ulysses S. Grant, tư lệnh Bắc quân và tướng Robert Lee, tư lệnh Nam quân.

Chỉ huy 28,000 sĩ quan và binh sĩ liên hiệp miền Nam là tướng Gordon, một trong những cận tướng can trường của Đại tướng Lee, 4 lần bị thương tại mặt trận, một lần bị trúng đạn xuyên qua mặt.

Tướng Chamberlain đã ghi lại trong hồi ký cuả mình: ”Từng đoàn, từng đoàn, họ tiến bước theo nhịp quân hành, ép chặt vào nhau giống như một giòng người đội vương miện màu đỏ ối, giương cao quân kỳ và hiệu kỳ. Đây là những người mà gian lao, đau khổ, nhọc nhằn, kể cả tử thần không bẻ cong được quyết tâm của họ. Họ đứng thẳng hàng trước mặt đoàn quân chúng tôi, một đoàn quân tơi tả, xương xẩu, nhưng hiên ngang, mắt sáng ngời chiến thắng, họ là những hình ảnh sống phản ảnh mối liên hệ thắm thiết chỉ có thể có giữa những đồng đội trên chiến trường”.

Không hề dự định trước, cũng như không hề được chuẩn y trước, tướng Chamberlain bất thần hô lớn ra lệnh, “Bồng súng chào!” cho quân đội miền Bắc. Một tiếng kèn lệnh vang lên, và lập tức toàn thể đoàn quân miền Bắc bồng súng lên vai, tiếng báng súng rập khuôn vang lên.

Phiá đối diện, tướng Gordon thúc nhẹ con tuấn mã khụy hai chân trước xuống, người và ngựa cùng cúi đầu, gươm tuốt trần chúc mũi trong một dáng đìệu hùng vĩ tuyệt vời. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc chuyển qua bồng súng nghiêm chào. Họ chào những “anh hùng bại trận”, họ bày tỏ sự kính trọng của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa Kỳ.

Và phiá hàng quân miền Bắc tiếp tục giữ đúng thế nghiêm. Không có thêm một tiếng kèn. Không có một tiếng trống. Không có một tiếng hô chiến thắng. Không có một tiếng nói. Không cả một tiếng thầm thì. Mà chỉ còn là một hàng quân im phăng phắc. Mọi nhịp thở như ngừng lại.

Buổi lễ đầu hàng kéo dài 7 tiếng đồng hồ. Gần 28,000 người, trên 100,000 tấn vũ khí, đạn dược, quân kỳ, hiệu kỳ lần lượt bỏ xuống. Từng đơn vị tiến lên, gác súng, tháo bao đạn, và xếp súng xuống. Kế đến họ trìu mến cuốn hay xếp quân kỳ, hiệu kỳ, lắm cái tơi tả và lắm cái nhuộm máu đã khô, sau cùng họ khẽ đặt những lá cờ kia xuống mặt đất…

Tại sao người Mỹ lại có được tháng 04/1865 tuyệt vời như thế kia? Tuyệt vời bởi lẽ cả người thắng lẩn kẻ bại đều thiết tha và chân thành tôn kính lẩn nhau. Tuyệt đối không có cảnh “nhảy múa trên đau khổ của kẻ bại”. Người đích thực là kẻ chiến thắng trong 04/1865 chính là dân tộc Hoa Kỳ.

Chủ Nhật, 28 tháng 3, 2010

Trinh Công Sơn & Bùi Giáng - Sự giao cảm vô thường

Bài của Vương Tâm
Được trích từ Blog của Trần Phan.

Sinh thời, người ta nói hai người chơi thân với nhau cũng không hẳn đúng, bởi lẽ mỗi người một tính cách, mặc dù có thời gian nhà hai người ở gần chợ Trương Minh Giảng, Sài Gòn. Thi sĩ Bùi Giáng thì ngông nghênh, lãng du và toả sáng bất cứ hoàn cảnh nào bằng thơ ca, còn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại dịu dàng, trầm buồn và trĩu nặng với sự cô đơn. Thơ Bùi Giáng luôn phớt tỉnh sự đời, suy tư chông chênh với ý tứ bất ngờ như tia chớp. Còn nhạc của Trịnh da diết nhưng không kém phần bảng lảng trong cõi triết luận vô thường. Mặc dù ngoài đời hai người ít để lại những kỷ niệm sinh hoạt hay giao lưu thân thiết đến mức tạo nên giai thoại. Thậm chí, nhiều năm trước khi mất, Bùi Giáng không còn có dịp lui tới gặp gỡ, trò chuyện với Trịnh công Sơn vì những sự cố không đáng có, nhưng hai người lại luôn gần gũi nhau về những nỗi niềm nhân sinh và luôn chia sẻ cùng nhau về cái sự vô thường của ý niệm giác ngộ về đời, về đạo của phật giáo. Những câu hát của Trịnh tựa như: “Tình không xa nhưng không thật gần; Không xa đời và cũng không xa một người; Một phố hồng và một phố hư không… nghe mà sao gần gũi với cảm xúc của thi sĩ họ Bùi kia với những câu thơ đại loại như:
Đã đi đã đến cuối trời
Đã về như vẫn muôn đời đã đi
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Những câu chuyện của hai người đều được ghi lại bằng dấu ấn thơ ca, tựa như sự đùa cợt, giao hoà và tâm đắc cùng nhau. Bùi Giáng đã từng viết những câu thơ tặng Trịnh Công Sơn:
“Anh Sơn vô tận bấy chầy
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua
Niềm thống khổ đứt ruột rà
Còn chăng? Chỉ một ấy là là chi
Hoặc lại có lúc ông còn trêu Trịnh Công Sơn:
“Công Sơn Trịnh trọng phiêu bồng
Thưa rằng thơ nhạc có ngần ấy thôi
Trịnh Công Sơn đối đáp không nhanh nên khó có thể ứng tác, nhưng ông lại bị nhiễm cái nét lạ trong thơ Bùi Giáng để nạp năng lượng cho ca khúc của mình. Theo nhà văn Bảo Trúc nói, thì Trịnh Công Sơn đã mượn của Bùi Giáng một số câu hoặc ý thơ để viết nên những ca khúc rất hay. Nhưng thực ra có sự giao thoa tự nhiên giữa ca khúc và thơ của Bùi Giáng, như trời ban cho vậy, chứ không hẳn là Trịnh chỉ chăm chút mượn câu thơ nào đó rõ rệt. Vì thế có người dẫn chứng rất thú vị ở ca khúc Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui Trịnh Công Sơn có lời hát như:
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười.
Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấyđể mắt em cười tựa lá bay
Thì nhà thơ Bùi Giáng cũng có những câu thơ giầu nhạc điệu tương tự trong cấu trúc của bài Nhìn thấy”:
“Mỗi sáng tôi nhìn mắt trời mọc trong mây,
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới
Có người còn dẫn hai cấu khá điển hình mà Trịnh Công Sơn đã mượn ý thơ của Bùi Giáng, đó là lời trong bài hát Em đi bỏ lại con đường”:
Em đi bỏ lại con đường
Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em
Tuy nhiên những dẫn chứng ấy chỉ những ai thật thân thiết với hai người mới có thể nói chi tiết. Vả lại đó là con số rất ít ỏi trong toàn bộ gia tài âm nhạc đồ sộ của Trịnh. Nhưng đặc biệt, rõ rệt nhất Trịnh Công Sơn đã lấy nguyên câu thơ Còn hai con mắt khóc người một con trong bài thơ Mắt Buồn của thi sĩ Bùi Giáng, để viết ca khúc Con mắt còn lại năm 1992. Mặc dù, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không đề sáng tác theo ý thơ Bùi Giáng, nhưng vẫn dùng nguyên câu Còn hai con mắt khóc người một con làm nút mở cho những lời hát rất cuốn hút người nghe. Tuy chỉ có một câu thơ dẫn, nhưng hầu như phần lời đều đậm đặc chất trừu tượng của thi sĩ Bùi Giáng. Đó là cảm xúc đối chọi được nén chặt trong kịch tính và ý tứ trùng khít qua đôi hình tượng bằng Đôi mắt đầy ám ảnh. Dường như khổ thơ thứ hai của Bùi Giáng trong bài thơ đã được Hoá hết trong ba phần lời ca khúc của Trịnh Công Sơn. Ta có thể đọc lại khổ thơ đó:
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bấy giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
Đồng thời qua lời ca khúc ta cũng thấy sự sáng tạo của Trịnh Công Sơn rất đặc sắc với những câu hát giầu chất bi kịch của tình yêu:
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ
Có điều thú vị, vào cái đận 92 ấy, thi sĩ Bùi Giáng không hề có ý tranh giành về chuyện bản quyền với người bạn của mình, bởi có người nêu thắc mắc vì sao nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không đề sáng tác theo ý thơ của ông. Có lẽ theo mọi người suy luận rằng, với tính cách bất cần của thi sĩ họ Bùi thì cũng chắng coi đó là sự xúc phạm. Vả lại hai người đã ít gặp nhau từ năm 1988, mãi cho đến năm 1994, hai người mới có dịp giao lưu lại vì công việc, mà cũng chỉ đối thoại và hỏi thăm nhau bằng thư. Và hơn nữa, bài thơ Mắt buồn của ông đã quá nổi tiếng, vậy thêm một lần đề tên mình lên bản nhạc thì cũng chỉ là thêm được tiền rượu mà thôi. Chuyện giữa hai người không ồn ào về bản quyền như giữa nhạc sĩ Trần Quang Lộc và thí sĩ A Khuê trong ca khúc Về đây nghe em sau này.
Mọi chuyện trở nên nhẹ nhàng, chứng tỏ tình bạn giữa hai người khá sâu sắc, mặc dù bị gián đoạn một thời gian dài. Điều còn lại là thành tựu của cả hai tác phẩm thơ và nhạc đều trở nên bất hủ. Hai người còn giao lưu với nhau, sáu năm sau cho đến khi thi sĩ Bùi Giáng qua đời, năm 1998. Đến viếng cố nhân, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong sổ tang những vần thơ, tại chùa Vĩnh Nghiêm, đúng với giọng điệu của người bạn; ngỡ như còn đang uống rượu cùng nhau:
Bùi Giáng Bàng Dúi Búi Giàng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hoá ra thi thể là ngàn hư vô
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô hạn ứ ừ viển vông
Trịnh Công Sơn-1998
Đúng là nỗi đau chỉ có thể khóc trong lòng và mọi nỗi niềm của cảm xúc với thi nhân ở đâu đó cõi hư vô, mà nhạc sĩ khó diễn tả thành lời. Sau này ông còn viết những câu thơ, để kỷ niệm một năm ngày mất của cố thi sĩ, với những lời hết sức buồn:
Thi nhân vĩnh viễn chân trời ấy
Đảo điên điên đảo bụi trần gian
Từ ấy tôi buồn như cỏ dại
Buồn vì một chút bụi lang thang
Đấy là chuyện thơ và nhạc, hai ông còn cùng nhau vẽ; vẽ tranh và chân dung bạn bè. Thật đặc biệt, thi sĩ họ Bùi vẽ cũng đẹp và lạ, không khác là bao so với tài hội hoạ của Trịnh. Hơn nữa hai người cũng đã từng vẽ cho nhau. Người nọ vẽ cho người kia một bức chân dung cũng rất lạ và đều được bạn bè lưu giữ cho đến nay.
Đồng thời sự giao cảm vô thường của hai ông trong nghệ thuật đã đem lại những cảm xúc cho đông đảo bạn bè trong giới. Nhiều người làm thơ ca ngợi hai ông và cũng nhiều hoạ sĩ dựng chân dung hai ông với những đưòng nét và mầu sắc độc đáo. Ngay sau khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi, nhà điêu khắc Trương Đình Quế ở Đồng Nai đã tạc hai bức tượng lớn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và thi sĩ Bùi Giáng. Hai tác phẩm điêu khắc này đã toát lên cái thần của hai người và đem lại sự đồng điệu cho người thưởng ngoạn. Bức tượng toàn thân nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ở tư thế ngồi vắt chân chữ Ngũ, một tay chống cằm, một tay cầm đàn Guitar chìm đắm trong suy tư. Còn bên cạnh là bức tượng nhà thơ Bùi Giáng, nom rất sinh động khác với nét tĩnh lặng của tượng Trịnh; người choàng áo mưa, đeo hồ lô rượu bên hông, tay chóng gậy, râu tóc phất phơ trong gió, cùng một chú chó nhỏ đu trên vai ông thật ngộ nghĩnh; và thêm nữa là một con mèo và một con gà trống đi cùng. Cả hai đều hiện lên đúng tính cách rất khác biệt nhưng lại đầy biểu cảm. Sau hai mẫu tượng này được đúc đồng và đưa về đặt yên vị tại bờ sông Rạch Chiếc, ở Q 2, TPHCM.
Có thể nói Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng, đều lừng danh và tiêu biểu cho những phong cách thơ, nhạc rất đặc sắc của một trăm năm. Sự hoá thân trong cõi phật của hai người đã tạo nên tinh thần khác biệt và làm nên đỉnh cao sự nghiệp. Nếu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thành công trong một thời gian dài bởi lẽ những cảm xúc và suy tư đậm tính triết luận gần gũi với đạo phật, chia sẻ và bày tỏ chân thành với người đời, thì ở thơ Bùi Giáng thể hiện sâu sắc một tinh thần tiêu dao, sắc sắc không không của cõi niết bàn. Người đời tặng cho ông danh hiệu thi sĩ Bồ tát vì lẽ đã cảm thụ và yêu thơ ông như thế. Do vậy sự hội tụ trong thi pháp còn kỳ lạ hơn cả tình bạn của hai ông. Tình bạn ấy khó gọi tên bởi nó lúc xa lúc gần, lúc mong manh, khi lại chói loà bởi sự hoà nhập về nhạc điệu, khúc thức, hình ảnh, và ngôn ngữ lẫn tư duy ở cõi thiền vô vi lan toả trong vũ trụ bao la. Đó chính là sự giao cảm vô thường của những kỳ nhân mang hai cái tên: Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn.